Ezequiel Iván Lavezzi (sinh ngày 3 tháng 5 năm 1985), biệt danh El Pocho, là một cầu thủ bóng đá người Argentina, hiện đang chơi cho câu lạc bộ Hà Bắc Trung Cơ ở giảiChinese Super League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina.
Sự nghiệp
Khởi nghiệp
Các phương tiện truyền thông có xu hướng để ý tới những cầu thủ trẻ đầy triển vọng người Argentina xuất hiện tại Italia đã nhanh chóng gọi Lavezzi là "Maradona mới". Chính Lavezzi phủ nhận điều này, thay vào đó, anh so sánh mình với một cầu thủ Argentina trẻ khác là Carlos Tévez. Mặc dù vậy, phong cách chơi bóng của anh khá giống với phong cách Argentine Football Creole, phong cách bóng đá đã trở nên nổi tiếng nhờ Maradona. Khi còn là một đứa trẻ, Lavezzi đã có sự quan tâm đặc biệt tới bóng đá và có được sự hỗ trợ từ Trung tâm Rosario, nơi anh sinh sống. Từ khi còn rất trẻ, tài năng bóng đá của Lavezzi đã được công nhận, anh chơi cho đội trẻ của Boca Junior từ năm 10 tuổi đến năm 17 tuổi. Sau đó, anh chuyển đến chơi cho đội trẻ của Estudiantes de Buenos Aires, tại đây, anh đã ra sân 39 lần và có 17 bàn thắng.
Genoa
Năm 2004, anh đến Genoa của Ý với giá 1 triêu Euro, nhưng dã ngay lập tức chuyển đến San Lorenzo (Argentina) dưới dạng cho mượn. Tại đây, ở tuổi 19, anh đã thi đấu giải Apertura năm 2004 và ghi được 6 bàn thắng. Đóng góp đáng chú ý nhất của anh là trong trận đấu với River Plate tại El Monumental. Anh ghi bàn vào phút 69 để giúp San Lorenzo giành chiến thắng và đe doạ tham vọng giành danh hiệu của River. Chính điều này đã khiến các phương tiện truyền thông gọi anh bằng biệt danh The Beast. Mặc dù đã lên kế hoạch để Lavezzi trở lại Genoa sau một mùa giải cho mượn, nhưng vẫn có những rắc rối. Trong khi Lavezzi đang thi đấu ở Argentina, Genoa đã tham gia một trận đấu được cho là đã có dàn xếp, điều này khiến họ rợi xuống chơi ở Serie C1, giải hạng Ba của Ý. Do có khó khăn về tài chính, tiền đạo này đã được bán cho San Lorenzo với giá 1.2 triệu Euro.
San Lorenzo
Trong lần trở về San Lorenzo của mình vào năm 2005, anh đã giúp CLB đứng ở nửa trên của Bảng xếp hạng, với tám bàn thắng ghi được, anh kết thúc mùa giải với vị trí thứ 4 trong danh sách ghi bàn. Đóng góp cuối cùng của anh cho San Lorenzo là giúp đội bóng giành danh hiệu Clausura 2007, bỏ cách Boca Junior 6 điểm.
Napoli
Napoli mới đây đã giành quyền trở lại chơi ở Serie A, sau khi dành Á quân tại Serie B. Để tăng cường lực lượng cho mùa giải mới, Napoli đã kí bản hợp đồng 5 năm với Lavezzi vào 5-7-2007. Thoả thuận chuyển nhượng trị giá khoảng 6 triệu Euro, anh đã được giới thiệu trước người hâm mộ và được trao áo số 7 cho mùa giải đầu tiên của mình tại đây. Anh sớm có đóng góp cho đội bóng bằng 1 hat-trick trong chiến thắng 3-1 trước Pisa tại Coppa Italia trên sân San Paolo, đây là hat-trick đầu tiên của một cầu thủ Napoli trong vòng 14 năm. Bàn thắng đầu tiên Lavezzi ghi đưược cho Napoli trong khuôn khổ Serie A là trong chiến thắng 5-0 trước Udinese vào 2-9-2007. Sau trận dấu, giới truyền thông tuyên bố "Napoli's Star is born". Napoli đã không có một chiến thắng lớn như thế từ năm 1988, khi Diego Maradona vẫn còn thi đấu cho Câu lạc bộ. Anh kết thúc mùa bóng 2007-2008 với 8 bàn thắng sau 35 trận đấu. Anh nhanh chóng chiệm được tình cảm của người hâm mộ. Mua bóng 2008-2009, anh ghi được 7 bàn thắng sau 30 trận.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
- Số liệu thống kê chính xác tới 27 tháng 1, 2016.
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp quốc gia | Châu lục | Tổng cộng | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | ||
Estudiantes (BA) | 2003–04 | 39 | 17 | - | - | - | - | 39 | 17 |
Tổng cộng | 39 | 17 | - | - | - | - | 39 | 17 | |
San Lorenzo | 2004–05 | 29 | 9 | - | - | 8 | 0 | 37 | 9 |
2005–06 | 22 | 9 | - | - | - | - | 22 | 9 | |
2006–07 | 33 | 7 | - | - | 5 | 1 | 38 | 8 | |
Tổng cộng | 84 | 25 | - | - | 13 | 1 | 97 | 26 | |
Napoli | 2007–08 | 35 | 8 | 5 | 3 | - | - | 40 | 11 |
2008–09 | 30 | 7 | 1 | 0 | 3 | 1 | 34 | 8 | |
2009–10 | 30 | 8 | 1 | 1 | - | - | 31 | 9 | |
2010–11 | 31 | 6 | 1 | 1 | 9 | 2 | 41 | 9 | |
2011–12 | 30 | 9 | 4 | 0 | 8 | 2 | 42 | 11 | |
Tổng cộng | 156 | 38 | 12 | 5 | 20 | 5 | 188 | 48 | |
Paris Saint-Germain | 2012–13 | 28 | 3 | 5 | 3 | 9 | 5 | 42 | 11 |
2013–14 | 32 | 9 | 6 | 1 | 10 | 2 | 48 | 12 | |
2014–15 | 31 | 8 | 7 | 1 | 8 | 0 | 45 | 9 | |
2015–16 | 16 | 2 | 4 | 1 | 4 | 0 | 24 | 3 | |
Tổng cộng | 107 | 22 | 22 | 6 | 31 | 7 | 163 | 35 | |
Tổng cộng sự nghiệp | 386 | 102 | 34 | 11 | 64 | 13 | 484 | 126 |
Đội tuyển quốc gia
- Số liệu thống kê chính xác tới ngày 21 tháng 6, 2016.[1]
Đội tuyển quốc gia | Năm | Số lần ra sân | Số bàn thắng |
---|---|---|---|
Argentina | 2007 | 2 | 0 |
2008 | 1 | 0 | |
2009 | 3 | 0 | |
2010 | 3 | 0 | |
2011 | 7 | 2 | |
2012 | 4 | 0 | |
2013 | 8 | 2 | |
2014 | 9 | 0 | |
2015 | 11 | 3 | |
2016 | 3 | 2 | |
Tổng cộng | 51 | 9 |
Bàn thắng quốc tế
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 20 tháng 6, 2011 | Sân vận động Monumental, Buenos Aires,Argentina | ![]() | 1–0 | 4–0 | Giao hữu |
2. | 11 tháng 11, 2011 | Sân vận động Monumental, Buenos Aires, Argentina | ![]() | 1–1 | 1–1 | Vòng loại World Cup 2014 |
3. | 11 tháng 10, 2013 | Sân vận động Monumental, Buenos Aires, Argentina | ![]() | 1–1 | align=center|3–1 | Vòng loại World Cup 2014 |
4. | 2–1 | |||||
5. | 4 tháng 9, 2015 | Sân vận động BBVA Compass, Houston, Hoa Kỳ | ![]() | 1–0 | align=center|7–0 | Giao hữu |
6. | 3–0 | |||||
7. | 13 tháng 11, 2015 | Sân vận động Monumental, Buenos Aires, Argentina | ![]() | 1–1 | 1–1 | Vòng loại World Cup 2018 |
8. | 14 tháng 6, 2016 | CenturyLink Field, Seattle, Hoa Kỳ | ![]() | 2–0 | 3–0 | Copa América Centenario |
9. | 21 tháng 6, 2016 | Sân vận động NRG, Houston, Hoa Kỳ | ![]() | 2–0 | 4–0 | Copa América Centenario |
Nguồn HTTP://vi.wikipmedia.org
0 nhận xét:
Đăng nhận xét