Nguyễn Hữu Cảnh (chữ Hán: 阮有鏡, 1650-1700), nguyên danh là Nguyễn Hữu Kính, với các tên húy khác là Lễ hoặc Thành[1][2], tước Lễ Thành Hầu (禮成侯)[3][4], sau lại được triều đình truy phong tước Vĩnh An Hầu (永安侯)[5] là một danh tướng thời chúaNguyễn Phúc Chu. Ông được xem là vị tướng mở cõi Nam Bộ với việc xác lập chủ quyền cho người Việt tại vùng đất Đồng Nai, Gia Định vào năm 1698. Kể từ thời điểm đó, miền đất này chính thức trở thành một đơn vị hành chính trực thuộc lãnh thổ Đại Việt, tức Việt Nam ngày nay.
Tên gọi
Nguyễn Hữu Cảnh còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Nguyễn Hữu Lễ, Nguyễn Hữu Thành, Lễ Công, Lễ Thành Hầu, Lễ Tài Hầu, Thượng Đăng Lễ, Chưởng Binh Lễ. Kính, Lễ, Thành là các tên húy của ông. Trong các tên húy này, húy Kính (sau đọc trại âm là Cảnh) được biết và dùng nhiều nhất, huý Lễ được dùng khi triều đình phong cho ông tước Lễ Thành hầu và trong dân gian khi đặt các tên sông hoặc đường mang tên ông, húy Thành có thể được dùng giới hạn trong dòng họ, gia phả.
Do lòng kính mộ công lao của ông, dân gian đọc trại húy Kính thành các âm Kiếng, Kiến, Kỉnh, Cảnh. Thời Nguyễn, vì kỵ húy Hoàng tử Cảnh, nên âm Cảnh đọc trại thành Kiểng. Nhưng cách đọc trại này đã phai mờ và ngày nay, tên gọi Nguyễn Hữu Cảnh đã trở nên thông dụng và rất ít người gọi hoặc dùng đúng tên là KÍNH dù một số dịch giả, sử gia vẫn dùng.[6]
Gia thế và khởi nghiệp
Ông sinh năm 1650 tại vùng đất nay là thôn Phước Long, xã Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình)[7], là con thứ ba của danh tướng Nguyễn Hữu Dật. Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Thiện.
Nguyễn Hữu Cảnh là cháu 9 đời của Nguyễn Trãi. Ông nội của ông là Nguyễn Triều Văn (dòng Nguyễn Hữu, tước Triều Văn hầu, phò triều Lê và Nguyễn sơ), trước ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sau theo chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) di cư vào đất Thuận Hóa.[cần dẫn nguồn]
Cha ông, Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật, sinh nhiều con trai, trong đó có bốn người là tướng giỏi, kể theo thứ tự: Nguyễn Hữu Hào (tước Hào Lương hầu, tác giả truyện nôm Song tinh bất dạ), Nguyễn Hữu Trung (tước Trung Thắng hầu), Nguyễn Hữu Cảnh (tước Lễ Thành hầu) và Nguyễn Hữu Tín (tước Tín Đức hầu).
Dòng dõi con nhà tướng, lớn lên trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, lại chuyên tâm luyện tập võ nghệ. Bởi vậy, tuy còn trẻ, nhưng ông đã lập được nhiều chiến công và đã được chúa Nguyễn Phúc Tần phong chức Cai cơ (một chức võ quan thuộc bậc cao) vào lúc tuổi độ hai mươi, được người đương thời gọi tôn là "Hắc Hổ" (vì ông sinh năm Dần và vì có nước da ngăm đen, vóc dáng hùng dũng).
Quan lộ
Lúc mới ngoài 20 tuổi, ông đã được phong chức Cai cơ với những công trạng lập được trong chiến trường Trịnh-Nguyễn.
Trước năm Nhâm Thân 1692, ông đã được phong tước là Lễ Tài Hầu (với chữ Tài có chỗ viết là Thành hoặc Hòa)[3]
Năm Nhâm Thân 1692, ông được phong làm Thống binh cầm quân dẹp loạn Chiêm Thành, bình định biên cương[3]
Năm Canh Thìn 1700, ông bị bệnh mà mất, hưởng dương 51 tuổi.[5] Khi mất, ông được triều đình phong tặng mỹ hiệu Hiệp tán công thần đặc tấn Chưởng dinh, thụy Trung Cần[5]
Công trạng
Bình định Chiêm Thành
Vào những năm 1690-1691, vua Chiêm Thành là Kế Bà Tranh thường đem quân vượt biên giới, sát hại dân Việt ở Diên Ninh (Diên Khánh). Đầu năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) phái Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh cùng với tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân bình định biên cương, thành lập trấn Thuận Thành (đất Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay).
Theo sách Đại Nam thực lục:
Bình định vừa xong, một nhóm người Thanh, đứng đầu là A Bân xúi giục bè đảng dấy loạn. Nguyễn Hữu Cảnh lại nhận lệnh đi đánh dẹp, rồi được cử làm Trấn thủ dinh Bình Khương (còn được gọi Bình Khang, nay là vùng Khánh Hòa-Ninh Thuận)[9]. Theo sách Đại Nam thực lục:
Xác lập chủ quyền vùng đất mới ở Nam Bộ
Theo Đại Nam Thực lục Tiền biên thì vào tháng 2 năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu phong Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất, cử vào kinh lược xứ Đồng Nai[10].
Theo đường biển, thuyền của Nguyễn Hữu Cảnh đi ngược dòng Đồng Nai đến ở tại Cù lao Phố, là một cảng sầm uất nhất miền Nam bấy giờ. Từ đấy, Nguyễn Hữu Cảnh đã ra sức ổn định dân tình, hoạch định cương giới xóm làng, lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để quản trị. Nha thuộc có 2 ty là Xá sai ty (coi việc văn án, từ tụng, dưới quyền quan Ký lục) và Lại ty (coi việc tài chính, do quan Cai bộ đứng đầu). Quân binh thì cơ, đội, thuyền, thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ. Đất đai mở rộng ngàn dặm, cho chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh châu trở vô, đến ở khắp nơi, đặt ra phường, ấp, xã, thôn, chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh, điền và lập bộ tịch đinh điền. Từ đó con cháu người Hoa ở nơi Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch[11].
Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 1) ghi công: Nguyễn Hữu Cảnh đã chiêu mộ dân phiêu tán từ châu Bố Chánh (nay là Quảng Bình) trở vào Nam vào đất ấy (tức đất Trấn Biên và Phiên Trấn), rồi đặt xã thôn, phường ấp, định ngạch tô thuế và ghi tên vào sổ đinh. Và cũng theo Trịnh Hoài Đức thì nhờ Nguyễn Hữu Cảnh mà đất đai mở rộng hơn ngàn dặm, dân số có thêm bốn vạn hộ.
Sách Đại Nam thực lục ghi:
Bình định Chân Lạp và qua đời
Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu (Ang Saur, có sách ghi Nặc Ong Thu - Chey Chettha IV) đem quân tiến công Đại Việt. Trước đó, năm 1689, anh trai của Nguyễn Hữu Cảnh là Nguyễn Hữu Hào đã theo lệnh chúa Nguyễn đi bình định Nặc Thu nhưng không thành công.
Chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh, cùng với Phó tướng Phạm Cẩm Long, Tham tướng Nguyễn Hữu Khánh đem quân lính, thuyền chiến hợp cùng tướng Trần Thượng Xuyên lo việc đánh dẹp và an dân. Và thủy binh của Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến thẳng đến thành La Bích (Nam Vang), đánh tan quân của Nặc Thu.
Sách Đại Nam thực lục chép:
Sau khi vua Chân Lạp qui hàng, Nguyễn Hữu Cảnh cho thuyền ghé lại thăm nom, khích lệ dân chúng, dù Khmer, Hoa hay Việt, hãy cùng nhau gìn giữ tinh thần thân thiện, tắt lửa tối đèn có nhau. Những hành động khoan hòa, thiết thực, những cử chỉ ưu ái thật lòng của ông đã làm cho đồng bào vô cùng cảm mến[12].
Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), Nguyễn Hữu Cảnh kéo quân về đóng ở cồn Cây Sao (sử cũ gọi Cù lao Sao Mộc hay Tiêu Mộc hoặc châu Sao Mộc, sau dân địa phương nhớ ơn ông, nên gọi là Cù lao Ông Chưởng, nay thuộc Chợ Mới, An Giang), và báo tin thắng trận về kinh.
Theo Gia Định thành thông chí, thì:
- Ở đây một thời gian ông bị "nhiễm bệnh, hai chân tê bại, ăn uống không được. Gặp ngày Tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5 âm lịch) ông miễn cưỡng ra dự tiệc để khuyến lạo tướng sĩ, rồi bị trúng phong và thổ huyết, bịnh tình lần lần trầm trọng.
- Ngày 14 ông kéo binh về, ngày 16 đến Sầm Giang (Rạch Gầm, Mỹ Tho) thì mất,[13]. Khi ấy chở quan tài về tạm trí ở dinh Trấn Biên (Biên Hòa), rồi đem việc tâu lên, chúa Nguyễn Phúc Chu rất thương tiếc, sắc tặng là Hiệp tán Công thần, thụy là Trung Cần, hưởng 51 tuổi. Người Cao Miên lập miếu thờ ông ở đầu châu Nam Vang. Nơi cù lao ông nghỉ bệnh, nhân dân cũng lập đền thờ, được mạng danh là Cù lao ông Lễ. Còn chỗ đình quan tài ở dinh Trấn Biên cũng lập miếu thờ.
Sách Đại Nam thực lục chép:
Tước / Thụy hiệu / Mỹ hiệu
Dưới đây là danh sách các tước / thụy hiệu / mỹ hiệu mà Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã được phong hoặc truy phong qua các triều đại.
- được phong trước năm Canh Thân 1692[13]
- Lễ Thành Hầu
- tiếng Hán: 禮成侯
- tiếng Anh: the Marquis of Ideal Ritual Observation
- tiếng Việt: phong cho ông tước là vị Hầu thông suốt lễ nghi
- Lễ Thành Hầu
- được truy phong khi mất, năm Đinh Hợi 1767[14]
- Hiệp tán công thần, đặc tấn Chưởng dinh, thụy Trung Cần
- tiếng Hán: 協贊工臣, 特進掌營, 謚忠勤
- tiếng Anh: His Honorable Military Assistant Attaché, specifically promoted to the post of Provincial Commanding Officer, posthumously named Loyal & Diligent Statesman
- tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu quan Hiệp tán[15], và đặc phong cho ông chức Chưởng dinh[16], với thụy hiệu là vị quan trung thành với triều đình và cần mẫn trong việc nước
- Hiệp tán công thần, đặc tấn Chưởng dinh, thụy Trung Cần
- được truy phong năm Gia Long 4 (Ất Mùi 1805), thờ phụ vào Thái Miếu, liệt vào Thượng đẳng công thần[17]
- Tuyên lực công thần, đặc tấn Phụ quốc Thượng tướng quân, Cẩm Y vệ Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ, Đô đốc phủ Chưởng phủ sự, phó tướng chưởng cơ Lễ Tài hầu, thụy Tuyên Vũ
- tiếng Hán: 宣力功臣, 特進輔國上將軍, 錦衣衞都指揮使司都指揮使, 都督府掌府事, 副將掌奇禮才侯, 謚宣武
- tiếng Anh: His Exalted Utmost Dedication Official, specifically promoted to Bulwark General of the State, Chief Commander of the Imperial Bodyguard, Marshal of the Area Command[18], Regional Vice Commander & General, Duke of Gifted Ritual Observation, posthumously named Promulgation of Martial Power
- tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu là vị công thần tận lực với đất nước, đặc tấn chức thượng tướng quân phò trợ đất nước, được lãnh trọng trách đứng đầu cơ quan Cẩm Y Vệ bảo vệ hoàng đế, cùng chức là vị chưởng quan Ngũ quân Đô Thống (là chức của 5 vị tướng lãnh cao nhất thời tiền Nguyễn như Tả Quân, Hữu Quân, v.v) thống lĩnh quân đội toàn quốc [19], (nguyên ông đã là) phó tướng, chưởng cơ, với tước là vị Hầu có tài năng về việc lễ nghi, ban thụy hiệu là vị võ quan tuyên dương võ nghiệp
- Tuyên lực công thần, đặc tấn Phụ quốc Thượng tướng quân, Cẩm Y vệ Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ, Đô đốc phủ Chưởng phủ sự, phó tướng chưởng cơ Lễ Tài hầu, thụy Tuyên Vũ
- được truy phong năm Minh Mạng 12 (Nhâm Thìn 1832) [14][20]
- Thần cơ doanh Đô thống chế, Vĩnh An Hầu[21]
- tiếng Hán: 神機營都統制, 永安侯
- tiếng Anh: Supreme Commandant of the Firearms Division, the Marquis of Perpetual Peace
- tiếng Việt: phong cho ông chức quan võ đứng đầu cơ quan Thần Cơ Doanh, là cơ quan với trọng trách bảo vệ kinh thành và kho vũ khí, cùng với các trách nhiệm liên quan đến vũ khí như chế tạo ống phun lửa, súng đạn, pháo hoa, v.v., và phong cho ông tước là vị Hầu (phù hộ cho đất nước được) đời đời bình an
- Thần cơ doanh Đô thống chế, Vĩnh An Hầu[21]
- được sắc phong năm Minh Mạng 3 (Nhâm Ngọ 1822), đình Bình Kính, Biên Hòa[14]
- Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thượng Đẳng Thần
- tiếng Hán: 拓境威遠昭應上等神
- tiếng Anh: Top-Rank Deity for which His contribution in frontier development & Numinous Grace is far reaching and profound
- tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu là vị Thượng đẳng thần linh ứng và uy danh khai khẩn đất đai vang dội lẫy lừng
- Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thượng Đẳng Thần
- được sắc phong năm Thiệu Trị 3 (Quý Mão 1843), đình Bình Kính, Biên Hòa[14] - tặng thêm 2 chữ Thành Cảm[22]
- Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thành Cảm Thượng Đẳng Thần
- tiếng Hán: 拓境威遠昭應誠感上等神
- tiếng Anh: Top-Rank Deity for which His contribution in frontier development & Numinous Grace with Influential Reply is far reaching and profound
- tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu là vị Thượng đẳng thần linh ứng, chứng giám cho lòng thành khấn vái, và uy danh khai khẩn đất đai vang dội lẫy lừng
- Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thành Cảm Thượng Đẳng Thần
- được sắc phong năm Thiệu Trị 3 (Quý Mão 1843) lần 2, đình Bình Kính, Biên Hòa[14] - tặng thêm 2 chữ Hiển Linh
- Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thành Cảm Hiển Linh Thượng Đẳng Thần
- tiếng Hán: 拓境威遠昭應誠感上等神
- tiếng Anh: Celestial Top-Rank Deity for which His contribution in frontier development & Numinous Grace with Influential Reply is far reaching and profound
- tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu là vị Hiển linh Thượng đẳng thần linh ứng, chứng giám cho lòng thành khấn vái, và uy danh khai khẩn đất đai vang dội lẫy lừng
- Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thành Cảm Hiển Linh Thượng Đẳng Thần
- được sắc phong năm Tự Đức 3 (Canh Tuất 1850), đình Bình Kính, Biên Hòa[14] - tặng thêm 2 chữ Trác Vĩ
- Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thành Cảm Hiển Linh Trác Vĩ Thượng Đẳng Thần
- tiếng Hán: 拓境威遠昭應誠感卓偉上等神
- tiếng Anh: Eminently Celestial Top-Rank Deity for which His contribution in frontier development & Numinous Grace with Influential Reply is far reaching and profound
- tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu là vị Hiển linh Kiệt xuất Thượng đẳng thần linh ứng, chứng giám cho lòng thành khấn vái, và uy danh khai khẩn đất đai vang dội lẫy lừng
- Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thành Cảm Hiển Linh Trác Vĩ Thượng Đẳng Thần
Ngộ nhận
Chức quan
Người dân ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ vẫn quen gọi ông là Chưởng Binh Lễ, vì vậy có người tưởng rằng ông giữ chức Chưởng binh. Trên thực tế, thời chúa Nguyễn không có chức này. Chức vụ cao nhất mà Nguyễn Hữu Cảnh đảm nhiệm lúc sinh thời là Thống suất và Chưởng Cơ. Sau khi ông mất, chúa Nguyễn đã truy phong chức Chưởng dinh. Do sự kính trọng của người dân đối với Nguyễn Hữu Cảnh, họ đã ghép tên và chức vụ của ông lại thành Chưởng Binh Lễ ("Chưởng" của Chưởng dinh hay Chưởng cơ, "binh" của Thống binh, và "Lễ" là tên tự của ông).
Tên đường
Ở thành phố Châu Đốc có đường Thượng Đăng Lễ, gọi đúng phải là Thượng Đẳng Lễ. Tuy nhiên, không phải chỉ Nguyễn Hữu Cảnh, vì Châu Đốc đã có đường Chưởng Binh Lễ, nên không thể cùng một nhân vật mà được đặt tên tại hai con đường. Thực ra đường Thượng Đẳng Lễ là chỉ Thượng Đẳng thần của thôn Vĩnh Nguơn có tên là Nguyễn Hữu Lễ, người đã có công cứu giá khi chúa Nguyễn Ánh gặp nạn tại Vĩnh Nguơn.
Đền thờ
Quyển Sử Cao Miên của Lê Hương (Khai Trí xuất bản, 1970) có lời chua dưới một bức ảnh: Đền thờ ông Nguyễn Văn Thụy (Thoại) vị đại thần Việt Nam bên cạnh vua Cao Miên trong thời kỳ Việt Nam bảo hộ nước này. Đền thờ cất gần Chợ Mới (Phnom Penh) bị bắt buộc phải triệt hạ vào năm1956.
Tuy nhiên, đây thực sự là đền thờ của Nguyễn Hữu Cảnh, vì bức ảnh cho thấy rõ tấm biển ở cổng ghi là Thượng đẳng thần[23]. Điều này phù hợp với nhiều tài liệu lịch sử khác".[24]
Ngày mất
Chính sử chép ông mất ngày 16/5, song tiểu sử Nguyễn Hữu Cảnh trưng bày trong các đình ở An Giang đều ghi là 10/5. Toàn vùng Tây Nam bộ đều làm lễ giỗ ông vào ngày này, có thể kể đến Đình Châu Phú, Bình Thủy, Tham Buông, Long Kiến, Mỹ Phước… Trong khi đó Đồng Nai lại giỗ ông ngày 16/5, có lẽ kỷ niệm ngày quàn linh cữu.
Tưởng nhớ
Nguyễn Hữu Cảnh mất được truy tặng Đặc Tấn Chưởng Dinh Tráng Hoàn hầu, thụy là Trung Cần (gia phả ghi tước và thụy được truy tặng lần sau cùng là Vĩnh An hầu, thụy Cương Trực).
Để tưởng nhớ công đức của Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, nơi quê hương cũng như nơi ông đến an dân, nhân dân đều lập đền thờ hoặc lập bài vị ông, như ở Nam Vang(Campuchia), Quảng Bình, Quảng Nam, Cù lao Phố (Biên Hòa), Đình Minh Hương Gia Thạnh,quận 5, TP. Hồ Chí Minh, Ô Môn (Cần Thơ)... Tỉnh An Giang là một trong những địa phương có nhiều đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh nhất. Trong số này, có Lễ Công Từ Đường ở phường Châu Phú A (Châu Đốc, An Giang), do Thoại Ngọc Hầu đứng ra xây dựng. Theo Đại Nam nhất thống chí thì "Đền Lễ công: ở thôn Châu Phú, huyện Tây Xuyên, thờ Nguyễn Hữu Kỉnh. Đền do Nguyễn Văn Thụy (tức Thoại Ngọc Hầu) dựng khi làm Trấn thủ, nay hương lửa vẫn như cũ, thường tỏ anh linh.".
Ngoài ra, họ tên và chức tước của ông còn được dùng để đặt tên cho trường học, đường phố tại nhiều địa phương...Vừa qua, nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tôn tạo khu lăng mộ của ông tại Thác Ro thuộc huyện Lệ Thủy. Năm 2009, sách Kỷ lục An Giang 2009, cũng đã công nhận ông là "người đầu tiên có công khai mở vùng đất An Giang" [25].
Văn thơ ca ngợi, truyền tụng công đức Nguyễn Hữu Cảnh còn lưu giữ khá nhiều, trích một đoạn:
- Từ ngày vâng lệnh Trấn Bình Khương,
- Bờ cõi mở thêm mấy dặm trường,
- Vun bón cột nền nơi tổ phụ
- Dãi dầu tên đạn giúp quân vương
- Giặc ngoài vừa nép bên màn hổ
- Sao tướng liền sa giữa giọt tương!
- (Bài thơ đặt nơi sắc phong tại đền Lễ Công ở Châu Phú)
Ảnh
Nguồn https://vi.wikipedia.org
0 nhận xét:
Đăng nhận xét