Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhân tài Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhân tài Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 2 tháng 12, 2020

TỪ BỎ CHỨC VỤ PHÓ GIÁM ĐỐC - TẠ THỊ THU HIỀN TRỞ THÀNH MASTER BẢO HIỂM NHÂN THỌ

Không ai có thể ngờ rằng một Phó Giám đốc Bưu điện hơn 22 năm trong nghề - chị Tạ Thị Thu Hiền đã trải qua đủ mọi thăng trầm, khi đạt đến thành công nhất định lại quyết định từ bỏ con đường sự nghiệp nhà nước để trở thành một nhân viên Bảo hiểm nhân thọ! 

Không có lựa chọn đúng hay sai, mà chỉ có lựa chọn đúng thời điểm.

Mọi người thường nghĩ rằng, ở độ tuổi càng cao con người càng có xu hướng mong muốn ổn định và những thử thách thay đổi nghề nghiệp thường dành cho các bạn trẻ độ tuổi mười chín, đôi mươi. Ấy vậy mà, điều đó không hề đúng với chị Tạ Thị Thu Hiền!

Chị Hiền sinh năm 1977 ở mảnh đất Cố đô Hoa Lư, Ninh Bình. Vốn xuất thân trong một gia đình có ông nội, bố và mẹ đều làm trong ngành Bưu điện và từng giữ những chức vụ rất cao. Bởi vậy, ngay từ thời gian còn đi học, chị Hiền đã được bố mẹ định hướng nghề nghiệp theo ông cha. Tốt nghiệp cấp ba, chị Hiền học tại Trường đào tạo nghề Bưu điện rồi sau đó trở thành nhân viên chính thức của Bưu điện thành phố Ninh Bình. 

Mrs. Tạ Thị Thu Hiền được bố mẹ định hướng nghề nghiệp theo ông cha

Nối tiếp truyền thống của gia đình, chị Hiền luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, được lãnh đạo cơ quan, đơn vị tin tưởng và tín nhiệm giao giữ nhiều trọng trách quan trọng trong ngành. Cụ thể, chị đã giữ và đảm nhiệm vị trí Phó Giám đốc Bưu điện thành phố Ninh Bình; sau khi chuyển công tác ra Hà Nội, chị giữ vị trí Phó Trưởng phòng Kế hoạch Kinh doanh Bưu điện TP Hà Nội.

Bước ngoặt cuộc đời và dấu ấn “22 năm 6 tháng thanh xuân”…

Sau mấy chục năm gắn bó với nghề, tưởng chừng đây sẽ là con đường đóng đinh trong sự nghiệp chị Hiền đến suốt cuộc đời. Tuy nhiên, cuộc đời có thật nhiều ngã rẽ mà con người không sao lường trước được.

Tháng 3 năm 2020, sau 22 năm 6 tháng cùng khóc cùng cười với biết bao thăng trầm biến cố, với những người bạn đồng hành thân thiết trong ngành Bưu điện, chị quyết định chia tay để bắt đầu một hành trình mới, đầy thử thách nhưng cũng đầy ĐAM MÊ, đó là trở thành một - nhân viên Bảo hiểm nhân thọ! 

Không có lựa chọn đúng hay sai, mà chỉ có lựa chọn đúng thời điểm

Có người sẽ cho rằng, đây là lựa chọn đầy mạo hiểm và thử thách… Khi mà, chị đã có mọi thứ trong tay, có chỗ đứng nhất định trong ngành Bảo hiểm, có một gia đình êm ấm thì việc chị “buông tay” để bắt đầu nắm bắt một cơ hội khác là điều ít ai ngờ tới. 

 "Tôi biết đã đến lúc mình cần phải sống đúng với đam mê thật sự của cuộc đời."

Tuy nhiên, chia sẻ với phóng viên chúng tôi, chị Hiền cho biết: “Thật ra, tôi cũng đã có sự chuẩn bị trước cho sự lựa chọn này. Ngay từ khi còn làm ở Bưu điện tôi đã được tiếp xúc với Bảo hiểm nhân thọ và tôi thấy đây là lĩnh vực rất nhân văn và mang nhiều ý nghĩa. Nếu mọi người hiểu đúng và có kiến thức thì sẽ giúp ích cho nhiều người.

Khi phải chia tay với mọi người ở Bưu điện, cảm xúc rất hỗn loạn! Nhưng, tôi biết đã đến lúc mình cần phải sống đúng với đam mê thật sự của cuộc đời.”

Bắt đầu hành trình mới, từ “số 0 - không tròn trĩnh”

Có thể nói rằng, hành trình chị Tạ Thị Thu Hiền đến với lĩnh vực Bảo hiểm nhân thọ thật đặc biệt, ở vào độ tuổi cũng thật đặc biệt. Tuy nhiên, việc bắt đầu hành trình mới của chị không phải là con số 0 tròn trĩnh mà điểm xuất phát của chị khiến nhiều người mơ ước. 

Tôi nhận ra NHIỆM VỤ, nói cách khác là SỨ MỆNH của tôi…

Khi ở độ tuổi đã có nhiều kinh nghiệm, trải nghiệm trong công việc và cuộc sống, chị hiểu rõ con đường và định hướng mình sẽ đi. Chị Hiền chia sẻ: “Tư vấn Bảo Hiểm Nhân Thọ chuyên nghiệp và tiến tới xây dựng, đào tạo được Hệ thống Tư vấn chuyên nghiệp tận tâm là những gì tôi muốn hướng tới. Đây là đam mê của tôi.

Khi làm việc tại Bưu điện Việt Nam tôi đã bắt đầu làm công việc tư vấn Bảo hiểm từ năm 2005, tôi cũng đã rất vui khi được trao những Hợp đồng BHNT cho khách hàng và hiểu được ý nghĩa nhân văn của BHNT. 

Tôi nhận ra NHIỆM VỤ, nói cách khác là SỨ MỆNH của tôi …phải giúp đỡ càng nhiều người càng tốt. Tôi muốn có nhiều gia đình được bảo vệ hơn nữa. Đặc biệt là giúp họ hiểu hơn vể Bảo Hiểm Nhân Thọ. Thật sự bây giờ, tôi đã rất sẵn sàng để bắt đầu. Tôi hạnh phúc vì được sống với Đam Mê của mình.”

Trao giá trị, hướng tới cộng đồng

Giúp đỡ một người, đã là hạnh phúc. Nhưng, giúp đỡ được nhiều người, niềm hạnh phúc ấy còn nhân lên gấp bội. Bằng việc trao đi giá trị, thông qua kênh Youtube của chị Hiền, nhiều kiến thức về sức khỏe, bài học về cuộc sống cũng như kiến thức về bảo hiểm nhân thọ được truyền tải một cách nhẹ nhàng và lôi cuốn.

Không chỉ trên đường chạy marathon để về đích mà chị Hiền đang chinh phục những vạch đích trên con đường sự nghiệp của cuộc đời mình. 

Không chỉ trên đường chạy marathon để về đích mà chị Hiền đang chinh phục những vạch đích trên con đường sự nghiệp của cuộc đời mình. 


Từng chặng, từng chặng sẽ là hành trình chị mang “bình an và hạnh phúc từ tâm” đến cho mọi người.

Trong suốt 15 năm làm bảo hiểm, chị Hiền luôn tự hào mình không phải xử lý chi trả bảo hiểm cho bất kỳ khách hàng nào. Chị Hiền chia sẻ: “Đây là điều tôi vô cùng tự hào và hạnh phúc, vì khách hàng của tôi đã khoẻ mạnh, bình an trong suốt 15 năm qua. Khi làm bảo hiểm và tư vấn với khách hàng về BHNT, tôi luôn tâm niệm rằng: À, chúng ta mua BHNT như là MUA MAY – BÁN RỦI vậy!” 

 "Chúng ta mua BHNT như là MUA MAY – BÁN RỦI vậy!"

Sống tự tin, sống lạc quan, sống an nhiên, sống như ý và thịnh vượng là niềm khao khát mà chị Hiền muốn hướng tới cho mình và cộng đồng.

Câu chuyện về hành trình chuyển đổi nghề nghiệp của chị Tạ Thị Thu Hiền không chỉ là câu chuyện cá nhân mà còn góp phần truyền cảm hứng mạnh mẽ đến những người phụ nữ hiện đại, để dám dấn thân, chinh phục và gặt hái thành tựu dù ở bất cứ ngành nghề nào.

Nguyễn Yến

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2019

Nguồn gốc tên nước Vạn Xuân của Việt Nam

Lý Nam Đế là người lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Lương thành công, lên ngôi hoàng đế, lập nên nước Vạn Xuân.

Kết quả hình ảnh cho lý nam đế

Lý Nam Đế tên thật là Lý Bí, sinh năm 503, mất năm 548. Ông là người làng Thái Bình, phủ Long Hưng. Theo một số sử gia, địa danh này nằm giữa Thạch Thất và thị xã Sơn Tây (Hà Nội) ngày nay.

Lý Bí đã từng làm quan cho bộ máy đô hộ nhà Lương. Tuy nhiên, hàng ngày tiếp xúc với chính sách cai trị tàn bạo của bộ máy đô hộ nhà Lương đối với người dân, khiến khắp nơi oán thán, vốn là người yêu cái ngay, ghét điều gian, Lý Bí không chịu khom lưng, quỳ gối, làm ngơ trước sự tàn ác ấy của giặc để hưởng vinh hoa, phú quý riêng mình, ông bèn bỏ quan về quê chiêu binh mãi mã hòng chống lại chính quyền đô hộ.

Tên tuổi Lý Bí chẳng mấy chốc vang dội khắp non sông, anh hùng hào kiệt theo về ngày càng đông, trong số đó có cả cha con Triệu Quang Phục (người sau này trở thành Triệu Việt Vương). Thanh thế của nghĩa quân Lý Bí vì vậy mỗi ngày một lớn mạnh.

Năm 541, Lý Bí chính thức phát lệnh đánh đuổi quân Lương. Quan phương Bắc đô hộ nước ta bấy giờ là Tiêu Tư đánh trận nào thua trận đó, liệu sức đánh không nổi, bèn bỏ chạy về Quảng Châu. Từ đó, Lý Bí làm chủ toàn bộ vùng đất phía Bắc nước ta, dọn vào thành Long Biên ở.

Vẫn còn làm chủ vùng đất phía Nam nước ta, vua nhà Lương bèn liệu kế xua thêm quân tiếp ứng, hai mặt đánh vào vùng đất mà Lý Bí đang làm chủ. Tuy nhiên, liệu việc như thần, Lý Bí đã đoán định được chủ ý của nhà Lương, bèn chủ động giải phóng vùng đất phía Nam trước khi nhà Lương kịp đem quân tiến đánh. Lực lượng nhà Lương ở phía Nam nước ta nhanh chóng bị Lý Bí dẹp tan. Lý Bí làm chủ toàn bộ vùng đất của người Việt từ đó.

Chưa nguôi ngoai với việc để vuột mất mảnh đất của người Việt, vua Lương bèn sai Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng sang đánh Lý Bí. Hai tướng giặc này liệ sức không đánh lại với Lý Bí, nên chùng chình chưa dám đánh. Sau, vì bị thúc ép quá, nên Quýnh, Hùng đành phải tiến quân. Quả nhiên, chưa kịp tiến vào đất Việt, quân của nhà Lương đã bị Lý Bí đánh phủ đầu ngay trên đất Hợp Phố (nay thuộc Quảng Châu – Trung Quốc). Quân nhà Lương bại trận thê thảm, bị giết quá nửa, hoảng sợ rút chạy tán loạn. Lý Bí làm chủ thêm cả phần đất Hợp Phố.

Sau khi bình định tiếp vùng đất phía Nam, đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Nước ta có tên là Vạn Xuân từ ngày ấy.

Sau này, nhà Lương tiếp tục cho quân sang đánh Vạn Xuân. Lý Nam Đế bị thua, phải giao toàn quyền cho Triệu Quang Phục điều hành việc đánh giặc cứu nước, rút chạy và ốm chết ở nơi trú tránh quân Lương.

Tuy chỉ ở ngôi được 5 năm, nhưng Lý Nam Đế đã để lại trên dòng sử Việt Nam một trang chói lọi. Cảm ơn đức lớn của ông, nhân dân đặt đền thờ ông ở nhiều nơi, hậu thế lại dùng tên ông để đặt cho nhiều đường phố ở các đô thị lớn. Ở Hà Nội, tên ông được dùng để đặt cho con phố nối giữa đường Phan Đình Phùng và đường Trần Phú.

Theo Nguyễn Tào

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2019

Cao Bá Quát - Thi sĩ lừng danh

Gông dài!Gông dài!
Mày biết ta chăng?
Ta chẳng có gì đáng hợp với mày cà!
Mày biết thế nào được ai phải ai trái!
Mày chẳng qua chỉ là cái máy làm nhục người đời mà thôi...

Kết quả hình ảnh cho Cao_Bá_Quát

Cao Bá Quát (1809-1854). Danh sĩ đời Tự Ðức, tự Chu Thần, hiệu Cúc Ðường, quê Phú Thị, huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Con của ông đồ rất hay chữ tên gọi là Cao Cử Chiếu. Dòng giõi họ Cao đời đời khoa bảng xuất thân. Lừng danh nhất là Cao Bá Hiền làm đến Binh bộ Thượng thư triều Lê kiêm chức Tham tụng phủ Chúa Trịnh.

Từ thuở nhỏ ông đã rất thông minh dĩnh ngộ

Năm 1831, ông 22 tuổi, đậu á Nguyên trường thi Hà Nội, nhưng thi Hội 2 phen đều bị đánh hỏng, ông không buồn thi cử nữa, ngao du non nước.

Năm 1841, quan đầu tỉnh Băc Ninh đề cử ông với triều đình, ông được triệu vào kinh sung chức Hành tẩu bộ Lễ. ít lâu sau được cử chấm thi ở trường Hương tỉnh Thừa thiên, ông và bạn đồng sự là Phan Nha dùng khói đèn chữa một ít quyển văn hay mà phạm huý, toan cứu vớt người tài. Việc bị phát giác, ông bị kết vào tội chết, nhưng Triệu Trị giảm tội cho ông, chỉ cách chức và phát phối vào Ðà Nẵng.

Gặp khi có sứ bộ Ðào Trí Phú sang Tân Gia Ba công cán, ông được tha cho theo sứ bộ đi lập công chuộc tội. Xong việc trở về, ông được phục chức cũ, rồi thăng làm chủ sự.

Năm 1854, ông phải đổi lên Sơn Tây, làm Giáo thọ ở phủ Quốc Oai. Ông buồn và căm phẫn quyết chí theo làm quân sư cho Lê Duy Cự chống lại triều đình. Việc khởi nghĩa ở Mi Lương thất bại, ông bị bắt rồi bị hành quyết cùng với 2 con trai năm ông 45 tuổi.

Ông còn để lại cho đời bộ sách Chu thần chi tập. Thơ ông dù bằng chữ Hán hay quốc âm đều rất hay. Những bài ca trù của ông cũng xuất sắc. Tên tuổi của ông được nêu cao với văn học nước nhà.


Tác phẩm để đời của văn nhân

Ngay sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây) bị thất bại (1855-1856), các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít. Tuy vậy, trước 1984, nhóm biên soạn sách Thơ văn Cao Bá Quát, đã tìm đến kho sách cổ của Thư viện Khoa học kỹ thuật trung ương (Hà Nội), và sau khi loại trừ những bài chắc chắn không phải của ông, thì số tác phẩm còn sót lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng thứ chữ Nôm và chữ Hán.

Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ. Trong số này về chữ Nôm, có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các tập:

Cao Bá Quát thi tập
Cao Chu Thần di thảo
Cao Chu Thần thi tập
Mẫn Hiên thi tập

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2019

Trần Nhật Duật - Danh tướng và vương tử tài hoa

Lịch sử Việt Nam đời Trần ghi đậm rõ nét của bao anh hùng tuấn kiệt như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật.. Mỗi người có những sắc thái riêng biệt, tất cả tạo thành một dãy ngân hà soi sáng trong vòm trời đât Nam. Riêng Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, không những là một tướng tài chống Nguyên-Mông mà là một trong những nghệ sĩ danh tiếng nhất đời Trần.

Kết quả hình ảnh cho trần nhật duật

Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (1254 - 1330) là con thứ sáu của vua Trần Thái Tông, tuy là vương tử nhưng đời sống rất xuề xòa, phóng khoáng, dễ tiếp xúc và không câu nệ. Chúng ta biết ông nhiều trong lịch sử kháng chiến chống nhà Nguyên-Mông Cổ xâm lăng lần thứ hai ở trận Hàm Tử (cửa Hàm Tử, Khoái Châu, Hải Hưng). Ông chỉ huy trận chiến thắng lừng lẫy này dọn đường cho trận chiến thắng Chương Dương của các danh tướng Trần Quang Khải và Trần Quốc Toản. Thái sư Trần Quang Khải đã đề bạt trong niềm vui sướng quê hương hết bóng thù:

Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ cửu giang san

(Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước cũ nghìn thu)

Làm quan trải qua bốn đời vua làm đến chức Thái sư nhưng lúc nào cũng có tinh thần phóng khoáng và độ lượng. Ông là một nhà nghệ sĩ giỏi và rất say mê âm nhạc, đã sáng tác rất nhiều khúc nhạc, lời ca, điệu múa. Ở dinh ông không ngày nào không mở cuộc chèo hát hay bày trò chơi, thế mà không ai cho ông là say đắm niềm vui mà quên công việc (1).

Giỏi âm nhạc, ông cũng có niềm say mê đặc biệt các ngôn ngữ nước ngoài, rất thích chơi với người nước ngoài, tìm hiểu phong tục, tập quán, văn hóa và triết lý của ho. Từ Thăng Long, ông thường cưỡi voi đến chơi thôn Đa-da-li - một thôn gồm người Việt gốc tù binh Chăm Chiêm Thành (Champa) , sau gọi trệch là thôn Bà Già, có lẽ ở mạn Cổ Nhuế, Từ Liêm - có khi ba bốn ngày mới về. Văn hóa Chăm nhất là về âm nhạc, triết lý không những lôi cuốn ông mà có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, văn hóa Việt Nam trong các triều đại Lý, Trần. Các điệu nhạc cung đình, chèo và quan họ trong dân gian đều có nguồn gốc ảnh hưởng từ văn hóa Chăm Chiêm Thành (2) (3). Một số kiến trúc chùa đình thời Lý-Trần trong giai đoạn này cũng có mang nét ảnh hưởng kiến trúc Chiêm Thành như một số hình tượng chim thần Garuda (3). Triết và đạo lý giữa hai dân tộc Việt Nam-Chiêm Thành cũng giao lưu và ảnh hưởng nhau. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông lúc về hưu cũng đã thân hành không ngại đường xa qua Chiêm Thành bàn bạc, học hỏi và sống chung như anh em với vua quan Chiêm Thành trong một thời gian (2).

Nhà nghệ sĩ Trần Nhật Duật có tiếng là người học rộng, thiệp liệp sử sách nhất kinh thành và rất ham thích đạo giáo, thường khi mặc áo lông và đội mũ giống như đạo sĩ. Ông tìm hiểu triết lý của nhiều dân tộc khác ngoài Chiêm Thành. Ông hay đến chơi chùa Tương Phụ, nói chuyện với nhà sư người Tống, ngủ lại rồi về.

Khách nước ngoài đến kinh sư, thường được ông mời đến chơi nhà, nếu là người Tống, thì ngồi đối nhau, đàm luận suốt ngày. Sử gia Nguyên triều (Mông Cổ) tưởng ông là người Chân Định (Hà Bắc, Trung Quốc) chính cống. Nếu là người Chiêm hay người các dân tộc khác, ông đều theo quốc tục của họ mà tiếp đãi vì ông đã hiểu và tiếp thu văn hóa của ho.

Khi nhà Tống mất, năm 1274 Hồi Hột, đem 30 thuyền cùng binh lính, vợ con đến Đại Việt xin thần phục. Tất cả đều được phép ở kinh thành. Có người như Trần Trọng Vi được Thánh Tông trọng đãi, quyết tâm “Lưu lạc thà làm ma nước Việt”, chết đi được vua làm thơ điếu (4). Sau này trong quân của Trần Nhật Duật chống Mông Cổ có đạo quân Tống với quân phục Nam Tống dưới trướng. Khi quân Mông giáp trận với Trần Nhật Duật, các tướng sĩ Mông Cổ ngạc nhiên và sợ hãi tưởng nhà Tống đã trở lại. Đây là một tác động tâm lý đánh vào quân Nguyên Mông Cổ và quân cựu-Tống dưới quyền Nguyên góp phần vào sự thua trận của quân Mông ở các trận như Hàm Tử mà Trần Nhật Duật lãnh đạo.

Năm 1280, vua quan Triều thần được tin chúa đạo Đà Giang, miền núi Tây Bắc, Trịnh Giác Mật tụ họp dân nổi lên chống lại triều đình. Lúc này nhà Nguyên cũng đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Đất nước đang trong tình trạng khẩn trương trước hiểm họa ngoại xâm lớn lao. Để tập trung tâm trí và sức lực đối phó với quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật làm An phủ sứ Đà Giang để giải quyết gấp rút sự cố nghiêm trọng này. Vị vương tử trẻ mới 27 tuổi này, dưới cờ hiệu "Trấn thủ Đà Giang", làm lễ ra quân lên đường đi Tây Bắc. Ông đã chinh phục tù trưởng Trịnh Giác Mật bằng phong tục "ăn bằng tay, uống bằng mũi" và được các dân tộc miền núi yêu mến như sau:

Biết được quân triều đình đến, chúa Đà Giang là Trịnh Giác Mật định ám hại nên sai người đưa thư dụ Trần Nhật Duật rằng: "Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến gặp, Giác Mật xin ra hàng ngay". Muốn thu phục được Giác Mật, Trần Nhật Duật mặc các tướng can ngăn, một mình một ngựa đến gặp chúa Đà Giang, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp đi hầu. Thản nhiên đi giữa rừng gươm giáo và đám lính dân tộc miền núi sắc phục kỳ dị cố ý phô trương để uy hiếp, Trần Nhật Duật nói với Giác Mật bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục rất ngan ngạnh chí khí của dân tộc vùng Đà Giang:

“Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đây thì nóng tai phải.”

Trịnh Giác Mật và các đầu mục đều kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệ của Trần Nhật Duật. Khi mâm rượu, có bầu rượu và dĩa thịt nai muối, được bưng lên, Trịnh Giác Mật đưa tay mời có ý thách thức. Ông không chút ngần ngại cầm thịt ăn rồi vừa nhai vừa ngửa mặt, cầm gáo rượu bầu từ từ dốc vào mũi hết sức thành thạo như người địa phương. Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên: "Chiêu Văn Vương là anh em với ta".

Trần Nhật Duật đáp lại "chúng ta từ xưa nay vẫn là anh em". Trần Nhật Duật sai tiểu đồng mở tráp lấy ra những chiếc vòng bạc trao cho từng đầu mục Đà Giang. Những người cầm đầu đạo Đà Giang hoan hỉ đón lấy tặng phẩm kết nghĩa theo đúng tục lệ của họ từ tay Trần Nhật Duật mà họ vừa nhận làm anh em. Đà Giang đã được quy thuận như thế: không đổ một giọt máu, không mất một mũi tên.

Trong chuyến đi trấn an Đà Giang này, Trần Nhật Duật cũng được một người Mường tên là Ma Văn Khải tặng một quyển sách dật sử viết bằng Man ngữ do tổ 5 đời là Ma Văn Cao soạn nói về cuộc đời của người Thổ tên Hoàng Quỳnh dưới triều Lý Thần Tông. Trần Nhật Duật sau này dịch từ Man ngữ ra chữ Hán với nhan đề “Lĩnh Nam dật sử” năm 1297. Đây là một bộ sách viết theo lối tiểu thuyết dài Trung hoa rất ly kỳ chia ra làm 28 hồi, giống như tiểu thuyết kiếm hiệp hiện đại, rất có giá trị về phương diện dân tộc, địa lý tư tưởng và văn hóa học (6). Trần Nhật Duật sau đó đã cùng Trịnh Giác Mật và vợ con về kinh thành gặp vua (5).

Thời vua Trần Nhân Tông, sứ giả sứ Sách Ma Tích (?, có lẽ là Sri Vijaya ở vùng đảo Sumatra) sang cống, không tìm được người phiên dịch. Cả Thăng Long chỉ có một minh Trần Nhật Duật dịch được. Đó là vì từ thời Thượng hoàng Trần Thái Tông, chàng vương tử Trần Nhật Duật đã chịu khó giao du với họ và học được tiếng nước họ rồi. Vua Nhân Tông thán phục, thường nói đùa: "Chiêu Văn vương có lẽ không phải người Việt mà là hậu thân của giống Phiên, Man".

Khi đã làm tể tướng, ông vẫn thường đến chơi nhà người Hoa kiều là Trần Đạo Chiêu, nói chuyện phiếm với nhau hàng giờ. Theo lệ cũ, sứ giả nước ngoài đến Thăng Long, tể tướng tiếp sứ không được cùng ngồi nói chuyện, phải thông qua một người phiên dịch, sợ hoặc có sự gi lầm lỗi thì đỗ cho người phiên dịch. Trần Nhật Duật thì không thế, mỗi khi tiếp sứ Nguyên đều nói chuyện trực tiếp, không muốn người phiên dịch. Đến khi sứ về nơi nghỉ thì dắt tay nhau cùng vào, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn bè. Điều này chứng tỏ đặc tính con người nghệ sĩ của ông khi chúng ta biết rằng cách đó không lâu ông đã cầm quân chống Nguyên Mông Cổ xâm lăng. Trong số những người Tống đến ở Đại Việt có người phường hát tên Lý Nguyên Cát mang đến đất Việt lối “tuồng truyện”. Lý Nguyên Cát thường đến dinh của Trần Nhật Duật chơi, nơi mà “không ngày nào không mở cuộc hát xướng, làm trò”. Lối hát này sau được truyền vào cung vua và con của người đào hát tên Dương Nhật Lễ (con nuôi của thái tử đời vua Trần Minh Tông) được lên làm vua trong thời gian ngắn (4). Dương Ngọc Lễ suýt lật đổ triều Trần sớm hơn 30 năm, nếu không nhờ Trần Nghệ Tông rút về trấn Đà Giang nơi Trần Nhật Duật đã thu phục trước đây, để từ đó khôi phục lại ngôi vua cho nhà Trần.

Trần Nhật Duật là người nhã nhặn độ lượng, mừng giận không lộ ra sắc mặt. Trong nhà không hề chứa roi vọt để đánh đầy tớ. Cũng có khi ông đánh, thì trước hết kể tội lỗi rồi sau mới đánh. Mặc dầu tài hoa phóng khoáng nhưng trong việc nước ông rất trung thực và thẳng thắng. Việc nước và việc cá nhân là hai việc riêng biệt không thể để lẫn lộn. Vợ ông là Trịnh Túc phu nhân từng có việc nhờ cậy nói riêng với ông ở nhà. Ông giả tảng gật đầu. Đến khi ra phủ, người thư ký đem việc ấy trình với ông, ông không cho.

Để kết thúc về con người của ông, có một câu chuyện như sau. Có một lần có người kiện kẻ gia tỳ (người đầy tớ gái) của ông với Quốc Phụ (có lẽ là Huệ Vũ Đại Vương Trần Quốc Chân). Quốc phụ sai gia đồng đến bắt người đầy tớ. Cô đầy tớ gái chạy vào trong phủ tể tướng, người đi bắt đuổi đến nhà giữa, bắt trói, ầm ỉ. Vợ ông khóc nói: "Ông là tể tướng mà bình thường cũng là tể tướng, chỉ vì ông nhân nhu quá cho nên người ta mới khinh thường đến thế thôi". Trần Nhật Duật vẫn tự nhiên chẳng nói lại câu gì, chỉ khẽ sai người bảo người đầy tớ gái rằng:

"Mày cứ ra, đâu đâu cũng đều có phép nước."

Trần Nhật Duật xứng đáng là danh nhân Việt Nam, văn võ toàn tài, có thể được xem là ông tổ của ngành ngoại giao Việt Nam. Tuy làm đến chức tể tướng và thái sư nhưng không bao giờ tham lam quyền lực bởi vì sống trong lòng ông là một tinh thần nghệ sĩ độ lượng trong nét khảng khái và nhân hòa.

Tham khảo

(1) Trần Quốc Vương - Vũ Tuấn San, Hà Nội nghìn xưa, Sở Văn hóa thông tin Hà Nội – 1975
(2) G. Coedes, The indianized states of South-East Asia, East-West Center, Honolulu, 1968
(3) Cao Xuân Phổ, Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, (Bài trong Hội nghị Sử học Đông Nam Á, Kualua Lumpur 1982).
(4) Tạ Chí Đại Trường, Ả Trần, Mai Kiện, Hồi Hột – Phía khuất của Sử-được-kí, Talawas, http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8768&rb=0302
(5) Lê Mạnh Thát, Vua Trần Nhân Tông Cuộc đời, tác phẩm và sự nghiệp, http://www.thuvienhoasen.org/u-nhantong-02.html
(6) Trần Nhật Duật – Lĩnh Nam dật sử, Nguyễn Tạo dịch từ Hán văn, tái bản, Nxb Trăm Việt, Oregon, USA.

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2019

Ỷ Lan Nguyên Phi - Thảm án Hoàng hậu và 72 cung nữ: Cuộc nội đấu cung đình hay hi sinh vì lợi ích Đất nước

Xuất phát điểm từ một cô gái hái dâu chăn tằm, Nguyên Phi Ỷ Lan đã để lại huyền thoại trong lòng phụ nữ Việt từ xưa đến nay. 


Nguyên Phi Ỷ Lan xuất phát điểm từ cô thôn nữ hái dâu. 

Lịch Sử Việt Nam ghi nhận Ỷ Lan Nguyên Phi là người phụ nữ duy nhất hai lần nhiếp chính. Trong đó lần thứ hai là khó khăn hơn cả khi vua Lý Nhân Tông còn nhỏ tuổi mà vận nước đang lâm nguy khi quân Tống tiến sang. 

Nhưng rồi, khả năng "tề gia trị quốc bình thiên hạ" của Nguyên Phi đã lèo lái con thuyền dân tộc cập bến an toàn, thoát khỏi nạn ngoại xâm và mở ra thời kỳ thái bình. Dĩ nhiên phải kể đến công trạng của Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành... nhưng để những bậc hùng anh ấy một lòng vì xã tắc, người phụ nữ nhiếp chính ấy cũng phải "đắc nhân tâm" như thế nào...

TRANH CÃI VỀ THẢM ÁN THƯỢNG DƯƠNG HOÀNG HẬU VÀ 72 CUNG NỮ

Vệt xám duy nhất trong phần đời trọn vẹn dành cho Lý Triều của Ỷ Lan Nguyên Phi, là cái chết của Thượng Dương Hoàng Hậu và 72 cung nữ. Tương truyền bà đã ép Hoàng hậu họ Dương cùng các cung nữ chôn sống theo vua mới băng hà. 

Đó là một cuộc cung đấu,hay là kết quả của cuộc tranh đoạt quyền lực chính trị hay là sự an bài bắt buộc hy sinh để tập trung cho trận đánh lớn của đất nước. Không ai có câu trả lời, nhưng hành trình từ một cô gái hái dâu ở một vùng quê có cơ duyên gặp được hoàng đế mà trở thành mẫu nghi thiên hạ trong những thời khắc lịch sử của dân tộc, rõ ràng là một hành trình huyền thoại.

Theo ghi chép của Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ toàn thư, quyển 3) chép sơ lược việc này như sau:
"Quý Sửu (1073)... Giam Hoàng thái hậu họ Dương,... (bởi) Linh Nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác hưởng, thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?" Vua bèn sai đem giam Dương Thái hậu và 72 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông... (còn) Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An".

Tháng Giêng, năm 1072, Thánh Tông Hoàng đế lâm bệnh nặng rồi băng hà, thọ 50 tuổi, trị vì được 18 năm. Hoàng thái tử Lý Càn Đức kế nghiệp, sử gọi là Lý Nhân Tông. Nhân Tông kế nghiệp khi mới 7 tuổi, nên tôn đích mẫu là Dương Hoàng hậu làm Thượng Dương Hoàng thái hậu (上楊皇太后) và để cho Thái hậu cùng dự việc triều chính, có Thái sư Lý Đạo Thành giúp đỡ công việc.

Ỷ Lan Nguyên phi được tôn làm Hoàng thái phi (皇太妃), không có quyền xen vào việc triều chính. Nhưng rồi, dưới lợi thế là mẹ đẻ của Hoàng đế, cùng sự liên kết với Thái úy Lý Thường Kiệt (李常傑), bà đã khiến Nhân Tông ra chiếu chỉ phế truất Thượng Dương Thái hậu. Sau đó, Ỷ Lan đã ra lệnh giam Dương Thái hậu cùng 72 cung nhân khác vào lãnh cung. Đến khi phát tang chôn cất Thánh Tông Hoàng đế, Thái hậu cùng các cung nhân bị buộc phải chôn theo.

Tục truyền rằng bà rất hối hận về việc này nên đã làm nhiều chùa Phật để sám hối, rửa oan.


Thông tin chi tiết về Nguyên Phi: 

Ỷ Lan (chữ Hán: 倚蘭 7 tháng 4, 1044 – 24 tháng 8, 1117) hay còn gọi là Linh Nhân Hoàng thái hậu (靈仁皇太后), là phi tần của Hoàng đế Lý Thánh Tông, mẹ ruột của Hoàng đế Lý Nhân Tông trong lịch sử Việt Nam.

Năm 1117, Thái hậu qua đời, thọ khoảng 73 tuổi, thụy hiệu là Linh Nhân Phù Thánh Hoàng thái hậu (靈仁扶聖皇太后). Sau đó, triều đình làm lễ hỏa táng, có ba người hầu gái được chôn theo.

Mùa thu, tháng 8, cùng năm ấy, chôn Linh Nhân Hoàng thái hậu ở Thọ lăng, thuộc phủ Thiên Đức (nay là đất huyện Tiên Sơn, thuộc Bắc Ninh).

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2018

Top 5 nữ doanh nhân giàu nhất Việt Nam

Những người phụ nữ này có tổng tài sản ước tính hàng tỷ USD và hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

1- Bà Nguyễn Thị Phương Thảo



Được Forbes công nhận tỷ phú USD ở Việt Nam là bà Nguyễn Thị Phương Thảo, với tài sản 3,1 tỷ USD, đứng thứ 766 thế giới trong năm 2018. Trái với vẻ ngoài nhỏ nhắn và tính cách của một người yêu ca hát, bà Thảo trên thương trường lại là người đàn bà thép, giữ ghế nóng ở những cái tên đang dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng. Là thành viên sáng lập, kiêm Tổng giám đốc của Vietjet, bà Thảo là một trong những nhân tố quan trọng đưa hãng bay này trở thành đối thủ sừng sỏ “chia lại” thị phần trên bầu trời với Vietnam Airlines, điều mà không ít hãng bay khác từng cố thử nhưng không thành công.

Thực hiện chuyến bay đầu tiên vào cuối năm 2011, Vietjet chỉ mất 6 năm để trở thành hãng hàng không đứng đầu thị trường với mức độ nhận diện thương hiệu hơn 90%. “Chúng tôi muốn mình là một Emirates của châu Á", bà Thảo nói với Bloomberg trong bài phỏng vấn đầu năm 2016. Định hướng là hãng hàng không giá rẻ, Vietjet góp phần đưa việc di chuyển bằng đường hàng không trở thành một cách thức di chuyển phổ biến. Giá vé cho chặng bay phổ biến nhất Hà Nội – TP HCM thậm chí còn thấp hơn các phương thức di chuyển khác, trong khi thời gian bay chưa tới 2h.

Trong quý gần nhất, doanh thu vận chuyển hành khách của Vietjet đã vượt mốc 4.000 tỷ đồng với đội bay đạt đến cuối năm 2017 là 52 chiếc. Vietjet cũng vừa nhận chiếc Airbus A321 NEO đầu tiên trong lô hàng 42 chiếc, dòng máy bay thế hệ mới tiết kiệm 15% nhiên liệu.

2- Khối tài sản khủng của bà Phạm Thu Hương- vợ tỷ phú Phạm Nhật Vượng



Cùng với chồng là tỷ phú Phạm Nhật Vượng – bà Phạm Thu Hương cũng nắm giữ lượng cổ phiếu khủng và tham gia điều hành cấp cao tại VinGroup.

Bà Hương sinh năm 1969, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kiev, Ucraina với bằng Cử nhân Luật quốc tế.

Cho đến nay, bà Hương sở hữu 124,8 triệu cổ phiếu VIC của VinGroup - tương ứng 4,73% vốn điều lệ và chưa từng một lần thoái vốn. Tổng giá trị khối cổ phiếu trên tính theo giá thị trường hiện nay là 6.903,66 tỷ đồng.

Được mệnh danh là “vua bà” trên sàn chứng khoán nhưng vị nữ tướng quyền lực này của VinGroup chưa từng xuất hiện trước truyền thông.

Thông tin về bà Phạm Thu Hương chỉ được biết đến qua lời kể của một vài đại gia Đông Âu thời đó, bà là một trong số ít người đầu tiên sát cánh cùng tỷ phú Phạm Nhật Vượng ngày đầu khởi nghiệp.

Năm 1993, nhận thấy cơ hội kinh doanh “ngàn vàng” tại Liên Xô khi đó, ông Phạm Nhật Vượng đã từ bỏ ngành mỏ Địa chất mình đang theo học và cùng vợ bắt tay vào kinh doanh.

Với số vốn 10,000 USD vay từ bạn bè và người thân, một nhà hàng Việt Nam tên là Thăng Long, ở Kiev, Ucraina, sau đó là thương hiệu mỳ ăn liền với cái tên “Mivina” lần lượt ra đời – đặt nền móng cho khối tài sản nghìn tỷ sau này của hai vợ chồng.

Không giống như các “đại gia” khác như ông Trịnh Văn Quyết của tập đoàn FLC hay ông Đoàn Nguyên Đức của tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, vợ ông Phạm Nhật Vượng được tham gia điều hành ở vị trí cấp cao tập đoàn VinGroup.

Bà Phạm Thu Hương được bầu vào HĐQT của Vingroup từ năm 2011 và giữ vị trí Phó Chủ tịch HĐQT từ đó đến nay.

Em gái bà Hương là bà Phạm Thúy Hằng hiện cũng là phó chủ tịch HĐQT của VinGroup với khối tài sản không hề kém cạnh – khoảng 3.500 tỷ đồng.

3- Bà Phạm Thúy Hằng

Bà Phạm Thúy Hằng là Phó chủ tịch tập đoàn Vingroup (VIC), đồng thời là em vợ của tỷ phú USD Phạm Nhật Vượng - Chủ tịch HĐQT tập đoàn Vingroup.

bà Phạm Thúy Hằng cũng có thời gian nắm quyền tại Technocom và hiện là Phó chủ tịch Vingroup. Khi tập đoàn bất động sản này trở thành một đế chế ở Việt Nam, bà Hằng cũng trở thành nữ doanh nhân giàu có nổi tiếng với gần 83 triệu cổ phiếu, tương đương với giá trị tài sản: 4.610,53 tỷ đồng.

Bà Hằng sinh năm 1974, là doanh nhân trẻ nhất lọt top 10 người giàu nhất sàn chứng khoán. Cùng với chồng, anh rể và hai chị gái, gia đình bà Hằng là gia đình trong top giàu nhất sàn chứng khoán Việt Nam.

4- Bà Trương Thị Lệ Khanh- bà chủ giàu nhất ngành thủy sản


Bà Trương Thị Lệ Khanh - Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc của Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn đã có cú bứt phá ngoạn mục, trở thành một trong những nữ tỷ phú trên thị trường chứng khoán Việt.

Với số tài sản khổng lồ sở hữu gần 40 triệu cổ phiếu VHC, chiếm hơn 40% cổ phần của Thủy sản Vĩnh Hoàn , bà Trương Thị Lệ Khanh hiện vượt lên trên nhiều đại gia trong lĩnh vực ngân hàng, bất động sản, công nghệ, chứng khoán, bán lẻ... để đứng trong top những người giàu nhất trên thị trường chứng khoán Việt. 

Những vị đại gia một thời ngự trị top đầu của bảng xếp hạng này như Trương Gia Bình, Đặng Thành Tâm... đã phải "nhường ngôi" cho vị Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc của Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn.

Đặc biệt, trong lĩnh vực thủy sản, bà Lệ Khanh đã vượt qua "ông vua tôm" Dương Minh Ngọc để đứng vị trí quán quân.

"Bà trùm" trong ngành thủy sản cũng vinh dự góp mặt trong top 10 nữ doanh nhân thành đạt do tạp chí Forbes Việt Nam bình chọn vào tháng 6/2013 dựa trên các tiêu chí: có vai trò quyết định cao nhất trong doanh nghiệp; có thời gian lãnh đạo đủ dài để tạo nên dấu ấn tích cực với công ty và ngành kinh doanh mà họ hoạt động…

5- Bà Chu Thị Bình



Hiện bà Bình đang nắm giữ 17,47 triệu cổ phiếu của Công ty xuất khẩu Thuỷ sản Minh Phú, chiếm khoảng 24,96% vốn điều lệ của công ty. Với giá chốt phiên ngày 23.2 của cổ phiếu MPC là 101.600 đồng/cổ phiếu, bà Bình hiện đang có tài sản trên sàn chứng khoán hơn 1.770 tỷ đồng.
Năm 18 tuổi, sau khi tốt nghiệp THPT, bà không thi Đại học mà cùng cậu vào Nam lập nghiệp. Bà từng lấy bằng trung cấp chuyên nghiệp, trải qua nhiều năm tháng gian khó, bắt đầu từ công việc của một công nhân thu mua tôm, bà cùng chồng tạo dựng cơ ngơi Minh Phú như ngày hôm nay.
Bà Bình từng đứng trong Top 10 người giàu nhất sàn chứng khoán nhiều năm liền.


Lên HOSE năm 2007, sau 8 năm MPC quyết định hủy niêm yết tại mức giá 122,000 đồng/cổ phiếu từ ngày 30/03/2015.

Ngày 16/10/2017, 70 triệu cổ phiếu MPC của Công ty cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú sẽ chính thức trở lại giao dịch trên UPCoM với giá tham chiếu 79.000 đồng/cổ phiếu.


Theo VietBao.vn 

Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2018

Nguyễn Bính - Thi sĩ giang hồ

Nguyễn Bính (tên thật là Nguyễn Trọng Bính; 1918–1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc.

Chân dung Nguyễn Bính do Nguyệt Hồ vẽ (nguồn: In)

Năm 1932, 1933 Nguyễn Bính có theo người bạn học ở thôn Vân lên Đồng Hỷ, Thái Nguyên dạy học, có lẽ những vần thơ như: 
Cỏ đồi ai nhuộm mà xanh 
Áo em ai nhuộm mà anh thấy chàm 
Da trời ai nhuộm mà lam
Tình ta ai nhuộm ai làm cho phai

Là được Nguyễn Bính viết trong thời gian này.

Bài thơ của ông được đăng báo đầu tiên là bài Cô hái mơ. Năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ Tâm hồn tôi tới dự thi và đã được giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn. Họa sĩ Nguyệt Hồ nhớ lại: Tôi quen Nguyễn Bính từ khi anh chưa có tiếng tăm gì, ngày ngày ôm tập thơ đến làm quen với các tòa soạn báo. Tôi thích thơ anh và đã giới thiệu anh với Lê Tràng Kiều, chủ bút Tiểu thuyết Thứ Năm, đã đăng bài "Cô hái mơ", bài thơ đầu tiên của anh đăng báo. Tôi khuyên anh gửi thơ dự thi, và anh đã chiếm giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn... chúng tôi thân nhau từ đó, khoảng 1936-1940, quãng đầu đời thơ của anh,...

Từ năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu nổi tiếng với số lượng thơ khá dày, đề tài phong phú, trong đó chủ yếu là thơ tình. Cũng trong năm này Trúc Đường chuyển ra Hà Nội ở và đang viết truyện dài Nhan sắc, Nguyễn Bính tỏ ý muốn đi Huế tìm đề tài sáng tác. Trúc Đường tán thành nhưng không có tiền, ông đã cho Nguyễn Bính chiếc máy ảnh và về quê bán dãy thềm đá xanh (vật báu duy nhất của gia đình) đưa tất cả số tiền cho Nguyễn Bính.

Vào Huế Nguyễn Bính Gửi thơ ra cho Trúc Đường đọc trước, rồi đăng báo sau. Cuối năm 1941, đầu năm 1942, Trúc Đường nhận được nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trong đó có: Xuân tha hương và Oan nghiệt. Sau đó Nguyễn Bính lại trở về Hà Nội, rồi lại đi vào Sài Gòn.

Lần chia tay cuối cùng với Trúc Đường là vào năm 1943, đến năm 1945 tin tức thưa dần. Năm 1946 thì mất liên lạc hẳn. Trong thời gian này Nguyễn Bính đã gặp nhà thơ Đông Hồ, Kiên Giang. Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên Giang. Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Độ Về Đây,...

Cũng trong thời gian này Nguyễn Văn Thinh (Thủ tướng chính phủ "Nam Kỳ tự trị") có treo giải: Ai đưa được nhà thơ Nguyễn Bính "dinh tê" (vào thành) theo chính phủ ("Nam Kỳ tự trị") sẽ được thưởng 1000 đồng Đông Dương! Nếu nhà thơ tự vào thành cũng được hưởng như thế (1000 đồng Đông Dương hồi đó là cả một cơ nghiệp). Nhiều thi sĩ là bạn Nguyễn Bính viết thư "thuyết khách" mời ông vào. Hồi đó ông đang lang thang ở Rạch Giá, ngày thì ăn ở nhờ một người bạn, đêm ra đình ngủ, ông chỉ có cái bao cói để chui vào cho khỏi muỗi, nên có nhiều người tưởng ông vào thành với Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ. Ấy vậy mà trong một bài thơ của mình ông đã viết hai câu khẳng định:... Mình không bỏ Sở sang TềMình không là kẻ lỗi thề thì thôi.Nhiều người ở Nam Bộ hồi đó biết chuyện gọi Nguyễn Bính là có chí khí của một sĩ phu yêu nước.

Năm 1947 Nguyễn Bính đi theo Việt Minh, việc này được Bảo Định Giang nhớ lại: Tôi không nhớ rõ cuối 1947 hay đầu năm 1948, khoảng 3 giờ chiều, em bé giúp việc cho tôi chạy vào nơi tôi làm việc bảo: "Có một người xưng là Nguyễn Bính đến đây muốn gặp chú"... Trên thực tế, Nguyễn Bính đã gia nhập đội ngũ Vệ quốc đoàn từ 3 giờ chiều hôm đó vì Bộ Tư lệnh là đồng chí Trần Văn Trà và đồng chí Nguyễn Văn Vịnh đã chấp nhận yêu cầu của tôi ngay ngày hôm sau. Chẳng những chấp nhận mà các đồng chí còn dặn tôi: "đối đãi đàng hoàng, chăm sóc chu đáo tác giả Lỡ bước sang ngang"

Nhưng theo lời giới thiệu của Đỗ Đình Thọ trong tập Thơ tình Nguyễn Bính, xuất bản năm 1991 thì Nguyễn Bính đã đến với cách mạng khá sớm - ngay từ 1945 trước ngày khởi nghĩa tháng tám.

Một thời gian sau, nhờ sự mai mối của ông Lê Duẩn, ông kết hôn với bà Nguyễn Hồng Châu (một cán bộ Việt Minh), ông sinh một con gái với bà này, đặt tên là Nguyễn Bính Hồng Cầu. Sau đó ông lại kết hôn với bà Mai Thị Mới, ở ấp Hương Mai, xã Khánh Lâm, huyện U Minh và lại sinh một con gái được đặt tên là Nguyễn Hương Mai. Trong thời gian này máy bay Pháp lượn vòng từ đập đá dài theo kênh Chắc Băng xuống Thới Bình, rải truyền đơn kêu gọi đích danh tác giả "Lỡ bước sang ngang" - Nguyễn Bính "quay về với chính nghĩa Quốc gia để được trọng đãi".

Năm 1954 theo Hiệp định Genève, Nguyễn Bính cũng như bao cán bộ Việt Minh khác tập kết ra Bắc. Ông về công tác tại Nhà xuất bản Văn nghệ, sau đó ông làm chủ bút báo Trăm hoa.
_ST_

Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2018

Câu chuyện của người thành công: Từ bỏ cơ hội trở thành phi công bởi tình yêu với Toán học nhưng lại trở thành doanh nhân lớn!

Cuộc đời của mỗi người, nói dài thì thật dài nhưng nói ngắn thì cũng chỉ trong vài cái chục năm là hết. Đối với Doanh nhân Hồ Hữu Việt, cuộc đời ông trải qua quá nhiều thăng trầm và đầy biến động, cũng một thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, có thể vì tình yêu với Toán học mà từ bỏ cơ hội lớn nhưng cuối cùng, dòng đời cũng đẩy đi cái nhiệt huyết năm ấy của ông.
Chân dung doanh nhân, Ts. Hồ Hữu Việt.
Ngày nhỏ nhiều xê dịch, tự mình học được cái gọi là TỰ LẬP

Ông Việt Hồ (biệt danh của DN Hồ Hữu Việt) kể, từ ngày còn nhỏ, ba không ở bên mà tình yêu của mẹ với ba thì quá lớn, lớn đến nỗi bà thường để lại con để đến chăm sóc ba. Nhưng cũng vì tình yêu ấy mới có thể cứu được ba của ông. Vì thế mà khi ấy, ông một mình phải cưu mang, chăm sóc em còn nhỏ. Ông đùa rằng, điều này cho ông được nhiều hơn mất, ông tự mình lớn, tự mình TỰ LẬP để sau này có trải nhiều đắng hơn cũng không làm mình gục ngã.

Ông nói, khi ấy cũng thường phải chuyển nhiều chỗ ở lắm. Được gửi đến ở nhà người Mường nên khả năng uống rượu của ông không ai bì được. Sau này ông lại được ba gửi đến ở cùng thầy giáo trong trường. Không có ai quản, thích làm gì, học gì đều được, cuộc sống dong chơi vô bờ bến cộng thêm ở trong trường nên hồi học lớp 3, ông đã biết thích bạn gái cùng lớp. Mọi người vẫn thường trêu ông kinh nghiệm tình trường dày dặn, ấy thế mà năm học đại học, ông theo đuổi bạn gái đến 3 năm vẫn không đổ.

Cuộc sống xê dịch này cho đến năm ông 12 tuổi thì thay đổi, gia đình ông chuyển về Hà Nội, ông tất nhiên đi cùng. Năm lớp 6, ông bắt đầu học tập tại thành phố, nhưng do đã hổng nhiều kiến thức từ trước nên ông càng phải cố gắng gấp đôi, gấp ba bạn cùng lứa để đuổi kịp và vượt lên dẫn đầu lớp, trường. Đó là tinh thần tự tôn, sự kiêu ngạo của một đứa trẻ đã giúp ông có càng nhiều cơ hội trong tương lai hơn và dần trở thành niềm tin của chính ông: Tự Học và Quyết Tâm sẽ khiến bất cứ ai chiến thắng!

Từ bỏ cơ hội trở thành phi công, tuổi trẻ đầy nhiệt huyết với tình yêu Toán học
Năm ấy, ông học tập tại Lớp Chuyên Toán của trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, đây là một trong ba lớp chuyên do Bộ trực tiếp tổ chức và quản lý. Là niềm tự hào, sự vinh dự mà ông đã đạt được sau bao cố gắng tại nhiều năm trước đó, như học tập tại lớp năng khiếu Toán thành phố, tham gia các cuộc thi học sinh giỏi Toán quận huyện, thành phố rồi quốc gia,… 

Nhưng không dừng lại ở đó, ông kể, ngày ấy trẻ mà, luôn muốn vươn lên nữa mà không dừng lại chỉ là thành viên bình thường trong lớp. Cũng vì thế mà sau đó, ông là một trong những sinh viên xuất sắc được cử đi học tại Liên Xô học khoa Toán - Cơ Trường ĐHTH quốc gia Matxcơva mang tên Lô Mô Nô Xốp. 
Ts Hồ Hữu Việt và những người bạn cùng được cử đi du học tại Liên Xô trong một buổi gặp mặt kỉ niệm. Trong đó có ông Nguyễn Thành Nam, cựu TGĐ FPT,... và rất nhiều người nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực. 
Chắc chắn sẽ không có một Tiến sĩ Toán học như bây giờ nếu như ông không từ bỏ cơ hội trở thành phi công rất vinh dự khi đó. Khi được hỏi tại sao lại từ bỏ, ông chỉ đơn giản nói: Bởi không thích mà thôi. Có lẽ đây là cơ hội đáng quý trong mắt nhiều người. Nhưng có câu nói: Giá trị của vật phụ thuộc vào con mắt của người nhìn.

Mà với Việt Hồ, có thứ đáng quý, đáng trân trọng hơn để ông quyết định từ bỏ sự quý giá này. Ông nói, hãy buông bớt một số thứ để nắm chắc nhất một điều, một điều mà bạn trân trọng. Bởi nếu không, đôi tay này sẽ chẳng có gì nữa.


Trở thành Doanh nhân – Nhà đầu tư LỚN sau nhiều cái gọi là THAY ĐỔI


Cuộc đời thay đổi, nhiệt huyết đôi khi cũng cần phải đối mặt với hiện thực. Những năm học tại Liên Xô cũng giúp ông hiểu nhiều điều hơn về xã hội, về cuộc sống.

Ông thấy ai đó ngày trước còn mang niềm vinh quang của nước nhà qua nước bạn học tập nhưng sau đó lại ủ rũ, chán nản hay thậm chí tinh thần không còn ổn định phải về nước. Lúc này ông còn phải biết ơn thời bé khó khăn đã rèn cho ông tinh thần kiên cường hơn bạn cùng trang lứa, để ông tiếp tục con đường mình đã chọn, hoàn thành tốt khóa học, trở về cống hiến vì nước nhà.

Sau đó, ông công tác trong Viện Khoa học Việt Nam, là Chiến sĩ Thi đua trong nhiều năm liền. Phấn đấu trở thành Tiến sĩ Toán học và kết nạp Đảng tại Viện. Tuổi trẻ nhiều năng lượng, nhiều sức đóng góp nên ông được cử tổ chức các hoạt động Đoàn. Và mọi chuyện có lẽ sẽ không khác đi nếu không có những chuyến xuất ngoại để nghiên cứu Toán học của ông.

Ts. Hồ Hữu Việt trong một buổi giao lưu văn hóa có chủ đề: Làm thế nào để phụ nữ trở thành CEO của một tập đoàn xuyên quốc gia?
Năm ấy, ngoài việc nghiên cứu trong nước, ông còn được cử ra nước ngoài để nghiên cứu. Và cũng từ đây tạo cho ông cơ hội được nghe, được nhìn, được hiểu hơn về nước ngoài đồng thời cũng nhìn lại nước mình. Ông nói, có đi mới biết, nước mình nghèo lắm, mọi người vất vả lắm. Bởi vậy mà trong ông nảy lên suy nghĩ: Làm sao để giàu lên, làm sao?

Thế rồi, Tiến sĩ Toán học ấy vậy mà từ bỏ công việc yên ổn, tốt đẹp hiện tại để đi làm giàu cho chính mình, cũng mở ra suy nghĩ cho những người quanh ông: Chỉ có mỗi người cố gắng làm giàu thì cả nước mới giàu lên được. Niềm tin ấy cứ thế lớn hơn, lớn đến nỗi tình yêu của ông với Toán học cũng bị đẩy về phía sau.

Công việc đầu tiên sau đó của ông chính là phu khuân vác tại công trường. Vậy làm thế nào để ông có thể trở thành nhà đầu tư lớn, doanh nhân thành công như hiện tại, xin mời đón đọc kì tiếp theo!

Ánh Hòa












Thứ Năm, 4 tháng 1, 2018

Phạm Hoàng Nam, người gieo cuộc đời trên mảnh đất thi ca

Giữa cuộc sống đời thường với bao lo toan, hối hả, khi mà người ta, đặc biệt là người trẻ chỉ quan tâm đến thời cuộc, giá cả, nhà đất, chứng khoán… thì tôi lại bắt gặp một chàng trai trẻ gieo cuộc đời mình trên mảnh đất thi ca. Có thể đó là một cách ví von nhưng tôi nghĩ có nhiều phần đúng như vậy khi nói về nhà thơ trẻ Phạm Hoàng Nam, Trưởng BBT Thi đàn Việt Nam.
Nhà thơ trẻ Phạm Hoàng Nam
Cơ duyên với thơ và sự ra đời Thi đàn Việt Nam

Sinh năm 1982 tại Hà Đông, Phạm Hoàng Nam ghi dấu ấn từ giải thưởng Trí tuệ Việt Nam năm 2004. Năm 2006, trong một hội thảo khoa học của công ty Namroyal do Phạm Hoàng Nam sáng lập và là Tổng giám đốc điều hành, sự có mặt của một số văn nghệ sĩ nổi tiếng và những chia sẻ của họ đã gợi ý tưởng cho chàng kỹ sư, giám đốc trẻ tuổi. Nhà thơ Phạm Tiến Duật nói: “Các nhà thơ bây giờ muốn viết, muốn nói gì đó cứ phải đi đi lại lại. Sao không có phần mềm nào đó có chức năng đứng lên, ngồi xuống cũng ra thơ”.
Bác Lê Khả Phiêu nguyên Tổng bí thư BCHTƯ Đảng gửi lời chúc mừng Thi đàn VN qua nhà thơ Phạm Hoàng Nam, dịp đầu xuân 2015
Phạm Hoàng Nam khi ấy chỉ cười, vì máy thì chỉ là máy, làm sao có thể hoạt động được như con người. Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng chia sẻ dù là một nhà thơ ông vẫn đề cao sự phát triển của công nghệ trong cuộc sống. Còn nhà văn Lê Lựu thì kể những câu chuyện mà ông đã được chứng kiến khi đi ra nước ngoài và kết luận rằng: “Ở những nước khác họ mạnh lên được bởi dù ở đâu, đi đâu họ cũng có tinh thần đoàn kết, hợp sức lại, như vậy mới làm được việc lớn”. 

Từ đó Phạm Hoàng Nam đã nhen nhóm ý tưởng sáng lập trang mạng dành cho cộng đồng người yêu thơ. Ở đó họ có thể kết nối để giao lưu, gặp gỡ, và là cơ hội xuất hiện trên thi đàn cho những người viết không chuyên nhưng có tài năng và đam mê. Bản thân Phạm Hoàng Nam, dù hoạt động và tỏa sáng trong lĩnh vực công nghệ nhưng anh cũng là một người yêu thơ, một nhà thơ trẻ với những sáng tác từ khi 14, 15 tuổi. Tài năng cùng với đam mê là yếu tố quyết định để Phạm Hoàng Nam sáng lập ra Thi đàn Việt Nam. Hiện Phạm Hoàng Nam là Viện phó Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực, người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo, điều hành, biên tập của Thi đàn. Anh được coi như người truyền năng lượng, thắp lửa và giữ lửa cho thi đàn. Con đường thơ ca mà anh đang đi đã nhận được sự ủng hộ, cổ vũ của rất nhiều người.

Gieo cuộc đời trên mảnh đất thi ca

Nhà thơ Phạm Hoàng Nam và MC Thảo Vân trong chương trình Xuân Thi Ca 2015
Chọn thơ làm mảnh đất gieo trồng sự nghiệp, hẳn nhiều người cho rằng quá “mạo hiểm” với một người trẻ trong cuộc sống chóng mặt ngày nay. Nhưng với Phạm Hoàng Nam, anh tin rằng ngày nào còn có người yêu thơ và sáng tác thơ thì ngày đó mảnh đất thơ ca anh đang vun xới vẫn luôn xanh tươi. Bởi vậy nên anh vẫn miệt mài và say mê với công việc tạo nên sân chơi, diễn đàn cho những người yêu thơ, những người sáng tác giao lưu, kết nối.
Trăn trở, thao thức và luôn hướng đến những người yêu thơ, những người cầm bút, có lẽ sự nỗ lực của Phạm Hoàng Nam cũng phần nào được bù đắp và anh không lẻ loi trên con đường đến với thơ ca. Ngày 13/07/2013 Thi đàn Việt Nam do Phạm Hoàng Nam là Trưởng BBT đã chính thức hoạt động dưới sự bảo trợ của Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực, và anh cũng được bổ nhiệm làm Viện phó của Viện.

Trong công việc sáng tạo nghệ thuật của mình, nhà thơ trẻ Phạm Hoàng Nam cũng đang dần khẳng định tiếng nói riêng trong thơ bởi những đổi mới, tìm tòi mà anh phát hiện. Thơ anh như một mầm xanh vừa mới bật lên mặt đất với sự mạnh mẽ, tràn đầy năng lượng, hứa hẹn một sự vươn dậy ngoạn mục. Thơ anh là tiếng nói, tiếng lòng của cả một thế hệ đã yêu, đang yêu, sẽ yêu và đầy khát khao chinh phục những đỉnh cao tinh hoa của cuộc đời.
NSND Quang Thọ, NSND Thanh Hoa, nhà thơ Bình Nguyên Trang và nhà thơ Phạm Hoàng Nam trình diễn thơ trong chương trình Xuân Thi Ca 2015
Ngày 8/2 vừa qua, Phạm Hoàng Nam và BBT Thi đàn Việt Nam đã tổ chức thành công chương trình “Xuân Thi Ca 2015” lần đầu tiên, để lại trong lòng người yêu thơ những ấn tượng tốt đẹp bởi sự quy mô và chất lượng. Chương trình có sự góp mặt của những nhà thơ tên tuổi như Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hữu Ước,.. cùng với 700 tác giả thơ từ khắp cả nước và nhiều vị khách đặc biệt có duyên với thơ ca như Trung tướng, Anh hùng LLVT Phạm Tuân, Nhạc sĩ Đoàn Bổng … Đó thực sự là bữa tiệc thi ca dành cho những người yêu thơ. Phạm Hoàng Nam đã và đang khẳng định con đường và định hướng của mình. Bằng tình yêu và niềm đam mê, tôi tin chàng trai này sẽ còn làm được nhiều hơn thế nữa. Anh đã thực sự trở thành người vỡ vạc gieo trồng trên mảnh đất thơ ca.

Cởi mở, quảng giao, hào hiệp nhưng cũng đầy tinh tế hiểu biết là một Phạm Hoàng Nam của cuộc sống đời thường. Nhìn anh chúng ta có thể hình dung về một chàng trai hiện đại, nhưng khi tiếp xúc thì ta sẽ gặp một tâm hồn, tính cách đậm chất nghệ sĩ. Phải chăng, sự hội tụ của những yếu tố đó đã khắc họa nên bức chân dung chân thực nhất về nhà thơ, kỹ sư Phạm Hoàng Nam trong lòng mọi người.

Nguyễn Thị Kim Nhung

Thứ Tư, 18 tháng 10, 2017

Người phụ nữ giành giải thưởng Nữ doanh nhân xuất sắc do UTC Mỹ bình chọn chỉ sau 6 tháng kinh doanh!

Nguyễn Thị Thanh Xuân nắm giữ vị trí Tổng Giám đốc của Công ty TNHH Onity Việt Nam từ năm 2016 và chỉ 6 tháng sau, năm 2017, chị đã giành được giải thưởng Nữ doanh nhân xuất sắc do tập đoàn UTC của Mỹ bình chọn.

Cận cảnh vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm của Tổng Giám đốc Công ty TNHH Onity Việt Nam, chị Nguyễn Thị Thanh Xuân, nữ doanh nhân xuất sắc.
Tập đoàn UTC (United Technologies) là một trong những tập đoàn công nghệ hàng đầu của Mỹ, được thành lập từ những năm đầu của thế kỉ 20. Onity Việt Nam chính là nhà phân phối độc quyền chính thức của Onity, một thương hiệu nổi bật của UTC.

Được thành lập từ năm 2005, Onity Việt Nam đã có 4 chi nhánh với trên 50 nhân viên tại khu vực Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Tp. Hồ Chí Minh.

Từ những ngày đầu ấy, Thanh Xuân luôn tâm niệm sẽ làm một người vợ đảm đang, vun vén cho tổ ấm gia đình để chồng có thể yên tâm chèo lái “con thuyền” Onity Việt Nam. Nhưng một biến cố bất ngờ ập đến, người phụ nữ nhu mì ấy đã phải gồng lên, tự mình gánh vác tâm huyết của chồng.
Cảnh hậu kì trước giờ lên sóng trên VOV TV của nữ doanh nhân.
Sau nhiều khó khăn, trắc trở khi lần đầu tiên tiếp xúc với công việc kinh doanh, đặc biệt với vị trí Tổng Giám đốc lại càng nhiều yêu cầu về các kĩ năng tổng hợp như gặp mặt, đàm phán với đối tác, tương tác, quản lí nhân viên,… Nhưng bằng sự kiên cường và nỗ lực không ngừng nghỉ, chỉ sau 6 tháng, chị không những giành được sự tín nhiệm tuyệt đối của nhân viên, đặc biệt là Phó Tổng giám đốc – một người mạnh mẽ, khắt khe và đắc lực, mà còn đạt được sự chứng nhận của Công ty đối tác – tập đoàn UTC về giải thưởng nữ doanh nhân xuất sắc.

Là một người phụ nữ, chị vẹn toàn tổ ấm, là một doanh nhân, chị xuất sắc đưa doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường. Onity Việt Nam hiện nay đã đạt 80% thị phần khu vực phía Bắc và phần lớn thị phần trên cả nước. Đồng thời là nhà cung cấp và tư vấn các sản phẩm, giải pháp toàn diện cho nhiều khách sạn, resort cao cấp đạt tiêu chuẩn 4 – 5 sao như: Accor, Marriott, IHG, Starwood, Daewoo..., các công trình như: Khách sạn Daewoo Hà Nội, Sofitel Metropole, JW Marriot Hà Nội, Khách sạn Novotel Hạ Long, Khách sạn Vinpeal, Mercure Đà Nẵng hay Khách sạn New World tại Tp. HCM,...
Tổng Giám đốc Thanh Xuân đã xuất sắc dành được sự tín nhiệm không chỉ của đối tác lớn là hãng ONITY Mỹ mà quan trọng hơn cả là sự tin phục của toàn bộ thành viên trong Công ty đối với chị.

Và khi được hỏi về quyết định khởi nghiệp của gia đình, Thanh Xuân chia sẻ: “Năm 2005, thị trường Việt Nam có nhiều chính sách mở để hòa nhập với nền kinh tế thế giới. Khi đó Việt Nam đã trở thành điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với khách du lịch đến từ các nước trên thế giới và phòng ốc khách sạn còn khan hiếm đặc biệt là các khách sạn 4 sao, 5 sao. Chúng tôi nhận thấy rằng đây sẽ là xu hướng trong tương lai, vì vậy chúng tôi lựa chọn các sản phẩm cao cấp để phân phối tại Việt Nam”.

Tiếp nối phương châm hoạt động: “Chất lượng là uy tín, Dịch vụ là đẳng cấp”, Thanh Xuân cùng tập thể nhân viên Onity Việt Nam luôn không ngừng sáng tạo, đổi mới, nắm bắt xu hướng thị trường để đáp ứng tốt nhất cho yêu cầu của khách hàng với giá thành cạnh tranh và dịch vụ hậu mãi tốt hơn nữa.


Nghê Na

Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2017

Lê Thánh Tông gắn liền với lịch sử cường thịnh của Việt Nam thời phong kiến

Tên tuổi và sự nghiệp Lê Thánh Tông gắn chặt với một giai đoạn cường thịnh của Việt Nam ở nửa sau thế kỷ 15.

Lê Thánh Tông tên là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư Lê Thái Tông, mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) tại nhà ông ngoại ở khu đất chùa Huy Văn Hà Nội ngày nay, mất ngày 30 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1497).
Lê Thánh Tông lên làm vua năm 1460, hai lần đổi niên hiệu: Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497). Trong gần 40 năm làm vua, ông đã đưa triều Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, quốc phòng, văn hóa. Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là "vua sáng lập chế độ, mở mang đất đai, bờ cõi khá rộng, văn vật tốt đẹp, thật là vua anh hùng, tài lược".

Về phương diện văn học, Lê Thánh Tông là một nhà thơ lớn, tác phẩm ông để lại rất phong phú, vừa thơ, vừa văn xuôi, vừa Hán, vừa Nôm, hiện còn được sao chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú nổi tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn...

Nhà cải tổ và xây dựng đầy nhiệt huyết
Nhờ sự ủng hộ sáng suốt, quyết liệt của nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt..., Lê Thánh Tông đã bước lên ngai vàng giữa lúc triều chính nhà Lê đang lục đục mâu thuẫn. Lên nắm chính quyền, Lê Thánh Tông nhanh chóng chấm dứt tình trạng phe phái trong cung đình, khẩn trương tổ chức xây dựng đất nước với một tinh thần cải cách mạnh mẽ, táo bạo. Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Lợi từ 5 đạo đổi thành 12 đạo (tức 12 thừa tuyên). 

Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn điền, khai khẩn đất hoang. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế... 

Dưới thời Lê Thánh Tông, lực lượng quốc phòng bảo vệ đất nước được tăng cường hùng hậu. Trước kia, quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 điều quân chính Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.

Người khởi xướng bộ luật Hồng Đức

Bộ luật Hồng Đức là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của sự nghiệp Lê Thánh Tông và của cả thời đại ông. Sự ra đời của bộ luật Hồng Đức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của xã hội Việt Nam hồi thế kỷ 15. Lê Thánh Tông, người khởi xướng luật Hồng Đức, là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Ông đã thu lại quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo".

Người phát triển những giá trị văn hóa dân tộc
Về phương diện văn hóa Lê Thánh Tông đã có công tạo lập cho thời đại một nền văn hóa với một diện mạo riêng, khẳng định một giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn hóa dân tộc. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ nền giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò của trí thức lại được đề cao như đời Lê Thánh Tông. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn. Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao 
Đàn chủ soái.
Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư hạ... là những giá trị văn hóa tiêu biểu của triều đại Lê Thánh Tông.
Nói tới công lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến một việc có ý nghĩa lịch sử mà ông đã làm. Đó là việc ông hủy án minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi đã bị tiêu hủy sau vụ án "Lệ Chi viên". Chính Lê Thánh Tông đã cho tạc bia về Nguyễn Trãi: "ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" (Tấm lòng ức Trai sáng tựa sao Khuê).

Một nhà thơ hào tráng
Đứng đầu hội văn học Tao Đàn, Lê Thánh Tông cũng dẫn đầu phong trào sáng tác. Thơ Lê Thánh Tông để lại khá nhiều và có giá trị cao về nội dung tư tưởng. Qua thơ ông, chúng ta không chỉ hiểu sâu hơn nhân cách, tâm hồn ông, một tâm hồn gắn bó mật thiết với non sông, đất nước, với nhân dân, với những truyền thống anh hùng của dân tộc, của Tổ tông, mà còn thấy được khí phách cả một thời đang vươn lên, đầy hào tráng:
Nắng ấm nghìn trượng tỏa trên ngọn cờ,
Khí thế ba quân át cày cáo.
Phương Đông Mặt trời mọc, áng mây nhẹ trôi,
Phóng mắt ngắm núi sông muôn dặm.
(Buổi sớm từ sông Cấm đi tuần biển Đông)

Lê Thánh Tông làm vua lúc 19 tuổi.
Một năm sau, khi trách lỗi cựu thần Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ, vị hoàng đế 20 tuổi bảo họ: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là ngươi theo đường chết, mang lòng không vua". Đó là tiếng nói của một ý chí tự cường dân tộc, động lực mãnh liệt đưa Lê Thánh Tông đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hồi thế kỷ 15.

Theo Giáo sư Đặng Đức Siêu

Thứ Sáu, 29 tháng 9, 2017

Tóm tắt về Trần Quốc Tuấn - Hưng Đạo Đại Vương

Trần Hưng Đạo (?-20/8/1300), còn được gọi là Hưng Đạo đại vương hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương, là một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một nhà chính trị, nhà văn cũng như là Tư lệnh tối cao chỉ huy quân đội toàn quốc của Đại Việt thời nhà Trần.


Ông nổi tiếng trong lịch sử nước Việt với vai trò chỉ huy quân đội Đại Việt ba lần đẩy lùi quân Nguyên - Mông trong thế kỷ 13 (1258 -1288). Chiến thắng của ông trước đội quân Nguyên - Mông dưới thời Hốt Tất Liệt là một trong những chiến công vĩ đại của lịch sử quân sự thế giới. Được coi là một trong những nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử dân tộc.Tư tưởng quân sự của ông đã được thể hiện rõ trong các luận thuyết, tác phẩm của mình.

Thân thế

Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, con trai thứ ba của Khâm Minh đại vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột. Cho đến nay vẫn không rõ mẹ ông là ai, có giả thiết đó là Thiện Đạo quốc mẫu, tên huý là Nguyệt. Trước khi lấy Thuận Thiên công chúa, Trần Liễu đã có nguyên phối tên là bà Nguyệt, một người trong tôn thất họ Trần. Thuận Thiên công chúa do là con của Lý Huệ Tông, nên theo luật lệ của triều đình xưa, dù hoàng nữ có là thiếp hoặc vợ thứ thì cũng được đưa lên hàng chính thất (vợ cả). Sau khi Trần Liễu mất (1251), bà Trần Thị Nguyệt đã xuất gia làm ni sư, hiệu là Diệu Hương.

Năm sinh của ông không rõ ràng, có tài liệu cho rằng là năm 1228, nhưng cũng có tài liệu cho là năm 1230, hay 1231. Nhưng điều đó cũng cho thấy khi ông sinh ra thì triều đại nhà Trần cũng vừa mới thành lập được không lâu (thành lập năm 1225).

Ông có người mẹ nuôi đồng thời là cô ruột, Thụy Bà công chúa. Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, TP Nam Định ngày nay.

Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy mà ông sớm trở thành người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ.
Theo Wikipedia 

Biến cố và 3 lần chống quân Nguyên - Mông của Trần Quốc Tuấn

Sau những biến động gia đình và thành kiến của cha, Hưng Đạo Đại Vương lại càng tỏa sáng như sao đêm. Ông sống anh minh, chết bất khuất, đời đời khắc ghi công lao vang dội của người anh hùng dân tộc này.

Biến động gia đình

Năm 1237, gia đình ông đã xảy ra biến động. Do chú ông là Trần Thái Tông lên ngôi và kết hôn đã lâu nhưng chưa có con nối dõi, Thái sư Trần Thủ Độ đang nắm thực quyền phụ chính ép cha ông là Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) cho Trần Thái Tông dù bà đang mang thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa.

Phẫn uất, Trần Liễu họp quân chống lại nhưng thế cô không làm gì được, phải xin đầu hàng. Vì Thái Tông cũng thương anh nên xin với Trần Thủ Độ tha tội cho Trần Liễu. Nhưng quân lính đều bị giết, mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm người tài nghệ để dạy văn, võ cho Trần Quốc Tuấn.

Khi trưởng thành, Trần Quốc Tuấn (19 tuổi) đem lòng yêu công chúa Thiên Thành, không biết rõ gốc tích của bà, nhưng các nhà nghiên cứu phần lớn đều đồng tình với quan điểm bà là con gái trưởng của Trần Thái Tông tức là em họ của ông. Đầu năm 1251, Trần Thái Tông muốn gả công chúa cho Trung Thành vương, nên đã cho công chúa đến ở trong dinh Nhân Đạo vương (cha của Trung Thành vương). Ngày rằm tháng giêng, Trần Thái Tông mở hội lớn, ý muốn cho công chúa làm lễ kết tóc với Trung Thành vương. Trần Quốc Tuấn muốn lấy công chúa, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng.

Mẹ nuôi Trần Quốc Tuấn là Thụy Bà công chúa biết chuyện, sợ ông bị hại trong phủ, liền chạy đến cung điện cáo cấp, xin Trần Thái Tông cứu Trần Quốc Tuấn. Vua hỏi việc gì, Thụy Bà trả lời:"Quốc Tuấn ngông cuồng, đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo bắt giữ rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu". Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng đến chỗ Trần Thái Tông xin lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương.

Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải.
Ba lần chống quân Nguyên Mông

Lần thứ nhất (1258)

Trần Hưng Đạo trở thành võ quan nhà Trần lúc nào không rõ, chỉ biết vào tháng Chín (âm lịch) năm Đinh Tỵ (1257), ông được giao trách nhiệm phòng thủ biên giới trước thời điểm quân Mông Cổ xâm lược vào tháng 12 năm 1257. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 9 (1257), (Trần Thái Tông) xuống chiếu, lệnh cho tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới (phía Bắc) theo sự tiết chế của Quốc Tuấn".

Vào ngày 24 tháng 12, Thái tử Trần Hoảng cùng với cha là Thái Tông hoàng đế ngự lâu thuyền mà kéo quân đến Đông Bộ Đầu, đập tan tác quân Nguyên Mông trong trận đánh ở đây, buộc họ phải rút chạy và chấm dứt cuộc xâm lược Đại Việt. 

Chiến tranh kết thúc, Quốc Tuấn vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Theo quy chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ nơi hương ấp của mình, khi chầu hầu thì đến kinh đô, xong việc lại về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả". Con vua Thái Tông là hoàng tử Trần Quang Khải không lâu sau được phong tước Đại vương và thăng làm Thái úy. Thái Tử Trần Hoảng lên ngôi hoàng đế Trần Thánh Tông.
Lần thứ hai (1285)

Tuy bị đánh bại nhưng Mông Cổ vẫn lớn mạnh ở phía bắc, thành lập nhà Nguyên và tiêu diệt Nam Tống vào năm 1279, tiếp giáp với biên giới Đại Việt. Trước sự bành trường của nhà Nguyên, nhà Trần đã đề phòng, chuẩn bị kháng cự. Trần Quốc Tuấn mở trường dạy võ, dạy con em hoàng tộc và những người tài giỏi trong nước. Ông thường đi khắp các lộ, kiểm soát các giảng võ đường địa phương, thu dụng nhiều người tài giỏi trong nước như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa, Đỗ Hành...

Đầu năm 1277, Trần Thánh Tông thân chinh đánh các bộ tộc thiểu số ở động Nẫm Bà La (nay thuộc Quảng Bình). Trần Quang Khải đi theo, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thượng hoàng Trần Thái Tông gọi Trần Quốc Tuấn tới, tỏ ý định lấy ông làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc. Trần Quốc Tuấn trả lời:"Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".
Khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau

Sau đó, Trần Quốc Tuấn chủ động gạt bỏ hiềm khích với Trần Quang Khải vì việc nước. Một hôm, Trần Hưng Đạo từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Hưng Đạo thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng". Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng tốt.

Đầu năm 1281, vua Nguyên Mông là Hốt Tất Liệt sai Sài Thung đem ngàn quân hộ tống nhóm Trần Di Ái về nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: 
"Sài Thung ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Thung dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu... Vua Trần Thánh Tông sai Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. 

Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Thung cầm mũi tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông..."

Năm 1282, nhà Nguyên sai Toa Đô mang quân vượt biển đánh Chiêm Thành ở phía nam Đại Việt. Chiến tranh giữa Đại Việt với nhà Nguyên đến gần. Tháng Mười (âm lịch) năm 1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai, Trần Hưng Đạo được vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh các lực lượng quân sự. Tháng Tám (âm lịch) năm sau (1284), ông cho duyệt quân ở bến Đông Bộ Đầu (gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay), đọc bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ nơi hiểm yếu.

Đầu năm 1285, quân Nguyên Mông lại ào ạt tiến công vào phía bắc và vùng Thanh Hóa-Nghệ An. Những trận đánh chặn ở biên giới của nhà Trần thất bại, quân Trần bị tổn thất. Trần Hưng Đạo phải thu quân về Vạn Kiếp. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quân Trần đã tan vỡ; Trần Quốc Tuấn thoát được là nhờ có Yết Kiêu kiên quyết giữ thuyền đợi chủ tướng.

Thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công vào Vạn Kiếp, quân Nguyên vây quân của Trần Quốc Tuấn. Một trận thủy chiến lớn giữa 2 bên đã diễn ra. Vua Trần đã đem quân đến trợ chiến cho Trần Quốc Tuấn. Ô Mã Nhi đã không ngăn nổi quân Trần rút lui. Toàn bộ quân Trần rút khỏi Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình Than về dàn trận bên bờ sông Hồng gần thành Thăng Long. Quân Nguyên tiến theo đường bộ về Thăng Long. Để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế "thanh dã" (vườn không nhà trống), Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân.

Quân xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định) đuổi theo vua Trần. Vua Trần Thánh Tông lo ngại, vờ hỏi ông xem có nên hàng không. Ông khảng khái trả lời "Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng".

Sau trận quân nhà Trần phản công quân Nguyên không thành và việc mặt trận Thanh-Nghệ bị tan vỡ (do sự phản bội của Trần Kiện), đại quân Trần chỉ lâm vào thế bị ép từ 2 mặt Bắc-Nam. Trần Hưng Đạo đưa thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông rút về vùng bờ biển ở Quảng Ninh và Hải Phòng ngày nay, là nơi mà quân Nguyên chưa vươn tới. 

Trong hành trình rút lui, quân Trần bị quân Nguyên đuổi gấp. Trước thế quân Nguyên Mông bức bách, ông đưa hai vua Trần ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên (sông Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn địch. Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, lại còn mối hiềm cũ của Trần Liễu, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi, chỉ chống gậy không mà đi, bởi vậy hai vua Trần và mọi người khỏi nghi ngại.

Khi thấy đạo quân của Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến lên đóng ở Trường Yên (Ninh Bình), ngày 7 tháng 4 năm 1285, Trần Hưng Đạo lại đưa 2 vua Trần cùng đại quân vượt biển vào Thanh Hóa, thoát khỏi thế bị kìm kẹp của đối phương. Hàng loạt tông thất nhà Trần ra hàng quân Nguyên như hoàng tử Trần Ích Tắc, các hoàng thân Trần Lộng, Trần Kiện.

Tháng 5 (dương lịch) năm ấy (1285), ông vạch kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một tháng chiến đấu quyết liệt với quân Nguyên, các cánh quân Trần do Trần Hưng Đạo cùng các hoàng tử Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật chỉ huy thắng lợi ở Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,... quân dân nhà Trần đã tiến vào Thăng Long, hoàng tử Thoát Hoan nhà Nguyên bỏ chạy. 

Trần Hưng Đạo và Trần Tung dẫn hơn 2 vạn quân tấn công quân Nguyên ở bờ Bắc sông Hồng. Quân Nguyên đại bại rút chạy về phía Bắc. Quân Trần do con Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Hiến (Trần Quốc Nghiễn) chỉ huy truy kích đến tận biên giới, quân Nguyên phải giấu Thoát Hoan trong ống đồng để chạy trốn. Trong cuộc chiến này, quân Trần giết được tướng Nguyên là Toa Đô và Lý Hằng.
Lần thứ ba (cuối năm 1287)

Cuối năm 1287, nhà Nguyên xâm lược lần thứ ba. Trần Nhân Tông hỏi ông: "Năm nay đánh giặc thế nào?". Trần Hưng Đạo đáp: "Năm nay đánh giặc nhàn". Lần này biết nhà Trần đã phòng bị ở Thanh - Nghệ, Thoát Hoan tiến thẳng vào từ phía bắc và đông bắc. Sau những cuộc đụng độ bất lợi ở biên giới, quân Trần rút lui. 


Khác với lần trước, Trần Hưng Đạo không bỏ kinh đô mà tổ chức phòng thủ ở Thăng Long. Tháng 2 năm 1288, quân Nguyên đánh thành, quân Trần nấp trong thành bắn tên đạn ra. Trần Quốc Tuấn sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát Hoan xin giảng hoà, nhưng ban đêm thường kéo ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui. Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy kích, nhưng quân Trần thường ẩn nấp khó phát hiện ra. Quân Nguyên bao vây tấn công vài lần không có kết quả, cuối cùng phải rút lui.

Trong khi đó, đoàn thuyền lương quân Nguyên do Trương Văn Hổ chỉ huy bị Trần Khánh Dư chặn đánh tiêu diệt ở Vân Đồn. Thoát Hoan bỏ Thăng Long về hành dinh Vạn Kiếp. Do bị thiếu lương và bệnh dịch, Thoát Hoan buộc phải rút lui, một ngả của thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy, một ngả của bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy. 

Trần Hưng Đạo bố trí lực lượng mai phục ở cửa sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi vào tháng Tư (âm lịch) năm Mậu Tý (1288), bắt sống Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan dẫn quân bộ tháo chạy theo đường Lạng Sơn, dọc đường bị quân Việt đón đánh khiến "quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 8 phần".