Chu Mạnh Trinh (朱孟楨, 1862-1905), tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân, là một danh sĩ thời Nguyễn, tác giả bài phú Hàm Tử quan hoài cổ.
Thân thế sự nghiệp
Ông sinh năm 1862, người làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Cha ông là Chu Duy Tĩnh, từng làm quan đến chức Ngự sử.
Từ nhỏ, ông nổi tiếng thông minh, có tài văn phú. Khi 19 tuổi, ông đỗ Tú tài. Sau đó ông sang thụ giáo Phó bảng Phạm Hy Lượng và được thầy gả con gái cho. Đến 25 tuổi, ông đỗ Giải nguyên trường Hương khoa thi Bính Tuất (1885). Khoa thi Hội năm Nhâm Thìn (1892), ông đậu Tiến sĩ.
Sau khi thi đỗ Tam giáp tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (đời Thành Thái thứ tư), ông được bổ làm Tri phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội, có tiếng là công minh chính trực. Có lần ông đã phạt đánh roi một tu sĩ người Pháp có hành động cậy thế lộng hành.
Làm Tri phủ ít lâu thì cha mất, Chu Mạnh Trinh xin cáo quan về cư tang. Sau đó, ông được giao chức Án sát tỉnh Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên.
Ông mất năm 1905, khi mới 43 tuổi.
Tài hoa Chu Mạnh Trinh
Là một danh sĩ, Chu Mạnh Trinh nổi tiếng là người có tài văn phú. Bài Hàm Tử quan hoài cổ ca ngợi chiến công của Thượng tướng Trần Quang Khải, đời nhà Trần:
Bãi dài, sông bỗng cắt ngang
Cửa quan Hàm Tử luênh loang bóng chiều
Khói mờ, cây rậm, bờ xiêu
Lầu hoang, thu lạnh, mây theo gió về…
Khoá then, nhờ đất hiểm kia
Non sông muôn thuở khôn nhoà chiến công.
Ngang ngọn giáo, khúc ca hùng
Hiên ngang nhớ thuở vẫy vùng tướng xưa…
Cửa quan Hàm Tử luênh loang bóng chiều
Khói mờ, cây rậm, bờ xiêu
Lầu hoang, thu lạnh, mây theo gió về…
Khoá then, nhờ đất hiểm kia
Non sông muôn thuở khôn nhoà chiến công.
Ngang ngọn giáo, khúc ca hùng
Hiên ngang nhớ thuở vẫy vùng tướng xưa…
Bài Đề thơ trên vách miếu Mỵ Châu (Quá Cổ Loa yết Mỵ Châu miếu đề bích), ông viết:
Tình chồng vốn nặng, nghĩa cha sâu
Oan tỏ cùng ai, hận mãi đau
Móng chẳng còn thiêng, rùa đã tếch,
Ngọc lưu vết lệ, bạng chìm sâu.
Bia tàn cổ thụ, này sông núi,
Bể biếc trời xanh, nọ mối sầu…
Ngoài điện An Dương, ngôi miếu lạnh
Trăng mờ, tiếng cuốc não canh thâu.
Oan tỏ cùng ai, hận mãi đau
Móng chẳng còn thiêng, rùa đã tếch,
Ngọc lưu vết lệ, bạng chìm sâu.
Bia tàn cổ thụ, này sông núi,
Bể biếc trời xanh, nọ mối sầu…
Ngoài điện An Dương, ngôi miếu lạnh
Trăng mờ, tiếng cuốc não canh thâu.
Chu Mạnh Trinh là một người đa tài. Ngoài tài thơ, ông còn là một nhà kiến trúc.
Ngôi đền Đa Hòa thuộc tổng Mễ Sở quê ông (nay thuộc xã Bình Minh huyện Khoái châu) thờ Chử Đồng Tử, do chính ông thiết kế, và đứng ra vận động xây dựng. Chu Mạnh Trinh cũng là người thiết kế chùa Thiên Trù (chùa Trò) ở khu danh thắng [Các chùa ở Hương Sơn|[Hương Sơn]] huyện Mỹ Đức. Cũng lấy nguồn cảm khích của rừng núi Hương Sơn, ông soạn bài hát nói "Hương Sơn phong cảnh" được coi là áng văn hay trong văn học Việt Nam.[1]
Giai thoại
Tương truyền, năm 1905 có cuộc thi vịnh Kiều ở Hưng Yên có mời Nguyễn Khuyến làm giám khảo, Chu Mạnh Trinh gửi bài tới dự và đoạt giải nhất. Nguyễn Khuyến chấm thơ của Chu Mạnh Trinh cho là khá, tuy nhiên khi đọc đến hai câu trong bài vịnh Sở Khanh:
"Làng nho người cũng coi ra vẻ,
bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay"
bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay"
Nguyễn Khuyến tỏ vẻ không bằng lòng, phê ngay vào bên cạnh rằng:
"Rằng hay thì thực là hay,
Đem "nho" đối "xỏ" lão này không ưa."
Đem "nho" đối "xỏ" lão này không ưa."
Chu Mạnh Trinh biết được có ý giận Nguyễn Khuyến. Khi làm án sát ở Hưng Yên, nhân dịp Tết có gửi tặng Nguyễn Khuyến một chậu hoa trà là loài hoa có sắc nhưng không có hương, có hàm ý chê Nguyễn Khuyến mắt lòa không nhận ra được cái sắc của hoa, hiểu được thâm ý của Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến làm một bài thơ gửi Chu Mạnh Trinh:
"Tết đến người cho một chậu trà
Đương say còn biết cóc đâu hoa!
Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ,
Áo tía đai vàng, bác đó a?
Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá
Gió to luống sợ lúc rơi già!
Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi,
Đếch thấy hơi thơm, một tiếng khà!"
Đương say còn biết cóc đâu hoa!
Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ,
Áo tía đai vàng, bác đó a?
Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá
Gió to luống sợ lúc rơi già!
Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi,
Đếch thấy hơi thơm, một tiếng khà!"
Tương truyền, Chu Mạnh Trinh đọc được vừa thẹn vừa ân hận.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét