Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2016

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491–1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt (阮文達)[1], tên tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ (白雲庵居士)[2], được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử (雪江夫子), là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Namtrong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535)[3] và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công (程國公)[4] mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người xứng đáng kế thừa và phát triển ngôn ngữ thi ca dân tộc kể từ sau thời Nguyễn Trãi, góp phần giúp nó đạt đến mức độ hoàn thiện cao dưới thời Nguyễn Du. Hai tập thơ của ông là Bạch Vân am thi tập (chữ Hán) và Bạch Vân quốc ngữ thi tập (chữ Nôm) được coi là thành tựu lớn của thơ văn trung đại Việt Nam, mở đầu cho một dòng văn học chạm chân vào hiện thực, đã mô tả xã hội dưới góc nhìn đời tư và đời thường, là một cống hiến lớn của văn học thời Mạc đối với tiến trình phát triển và hoàn thiện của văn học dân tộc.
Ngoại trừ quãng thời gian dưới 10 năm thời thơ ấu có thể xem là bình yên cuối triều Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống gần trọn thế kỷ 16, một thế kỷ nhiều biến chuyển mang tầm ảnh hưởng chưa từng có trước đó trong lịch sử dân tộc, mà ông vừa là nhân chứng vừa là nhân tố quan trọng tạo nên chúng. Là một người xuất thân từ tầng lớp trí thức quan lại nhưng cả cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao giờ coi việc làm quan là lý tưởng cao nhất của sự nghiệp, cũng như là một nhà nhân đạo chủ nghĩa ông luôn đề cao tư tưởng thân dân trong sách lược trị nước.
Ông cũng được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các tập đoàn quyền lực phong kiến Mạc, Lê-Trịnh, Nguyễn (nói theo lời của danh sĩ Nguyễn Thiếp là phiến ngữ toàn tam tính) đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với tiến trình của lịch sử dân tộc và từ đó tác động lớn tới quan hệ địa chính trị của cả khu vực Đông Nam Á trở về sau. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Bỉnh Khiêm có khả năng là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một tầm nhìn chiến lược thấu suốt về chủ quyền của đất nước trên biển Đông (còn được gọi là biển Hoa Nam hay biển Nam Trung Hoa) ngay từ thế kỷ 16. Ông cũng có thể là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam – với tư cách là quốc hiệu của dân tộc – một cách có ý thức nhất thông qua di sản thơ văn của ông còn lưu lại đến ngày nay.

Tiểu sử

Gia thế và những năm thơ ấu

Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông (1491), ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Cha của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này[5], nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định (người huyện Vĩnh Lại) là người có tướng sinh quý tử.
Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa đầu làng, chỉ qua con sông Hàn (Tuyết Giang) nối đôi bờ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại đều có học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông. Trong gia phả của họ Nguyễn (thuộc nhánh hậu duệ người con trai thứ 7 của Nguyễn Bỉnh Khiêm) ở thôn An Tử Hạ còn ghi lại: "Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế", qua đó cho thấy người mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ.[6]

Thời niên thiếu và những năm biến loạn cuối đời Lê sơ

Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều (thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cất công vào tận xứ Thanh để tầm sư học đạo. Lương Đắc Bằng từng là một đại thần giữ chức Thượng thư dưới triều Lê sơ nhưng sau khi những kế sách nhằm ổn định triều chính do ông đưa ra không được vua Lê cho thi hành, Lương Đắc Bằng đã cáo quan về quê sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu đã trở thành học trò xuất sắc nhất của người thầy họ Lương. Bởi vậy mà trước khi qua đời, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu Dịch) là Thái Ất thần kinh đồng thời ủy thác người con trai Lương Hữu Khánh của mình cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy dỗ.

Thi cử và làm quan dưới triều Mạc
Lớn lên trong thời đại loạn (giai đoạn triều Lê sơ rơi vào khủng hoảng, suy tàn), không muốn đi lại vết xe cũ của người thầy Lương Đắc Bằng nên từ khi trưởng thành cho đến khi ra ứng thí (1535), suốt hơn 20 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bỏ qua tới 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527), xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí (ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc). Tới năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên. Năm ấy ông đã 45 tuổi. Ngay sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư (chuyên việc soạn thảo, sửa chữa các văn thư của triều đình) rồi sau được cử giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Nhưng sự qua đời đột ngột của Mạc Thái Tông vào năm Đại Chính thứ 11 khi mới 41 tuổi (1540) đã kết thúc giai đoạn được coi là thịnh trị nhất dưới triều Mạc đồng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng mất đi một chỗ dựa vững chắc cho việc thực hiện những hoài bão trị quốc của mình. Nhân lúc triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái do Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) còn ít tuổi lên thay vua cha nhưng chưa đủ năng lực điều hành chính sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ trị tội 18 lộng thần (trong đó có cả con rể của ông là Phạm Dao làm Trấn thủ Sơn Nam) nhưng không được vua chấp thuận. Bởi vậy, năm 1542 ông xin về quê trí sĩ sau 8 năm làm quan tại triều đình.
Sau hai năm về trí sĩ, tới năm Giáp Thìn (1544), vua Mạc lại cho người về phong tước Trình Tuyền Hầu cho ông, rồi sau lại thăng ông lên chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công. Do vậy mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Một số nhà nghiên cứu tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng nguồn gốc của tên gọi Trình Tuyền (gắn với tước hiệu Trình Tuyền Hầu và Trình Quốc Công của ông) là bắt nguồn từ tên địa danh của làng Trung Am từ trước chứ không phải là bắt nguồn từ họ tên người theo ý hiểu rằng "Nguyễn Bỉnh Khiêm là người hiểu rõ suối nguồn Lý học của họ Trình (tức Trình Di và Trình Hạo) đời Tống bên Trung Quốc".
Gần hai chục năm từ năm 53 tuổi tới 73 tuổi[7], Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không ở hẳn kinh đô nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính, lúc bàn quốc sự, lúc theo xa giá nhà vua đi dẹp loạn, vua Mạc tôn kính ông như bậc quân sư. Những việc trọng đại nhà vua thường sai sứ giả về hỏi (trong đó có lời khuyên nổi tiếng đã đi vào sử sách: Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời)), có khi lại đón ông lên kinh để bàn việc, xong rồi ông lại trở về làng Trung Am. Ngoài 73 tuổi, ông mới chính thức treo ấn từ quan, về quy ẩn nơi quê nhà. Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải một người bạn lâu niên với Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm thơ ca ngợi tài đức cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu như "Lực phù nhật cốc trụ kình thiên" (năng lực phò vua như cột chống đỡ trời) hay "Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt" (một tay anh kiệt huân nghiệp trải bốn triều vua).
Trong những năm trí sĩ cũng như thời gian quy ẩn tại quê nhà, ông đã cho dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dạy học cạnh sông Tuyết (còn có tên là sông Hàn). Vì vậy mà về sau các môn sinh tôn ông là "Tuyết Giang phu tử". Học trò của ông có nhiều người hiển đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của ông).[8]

Những năm cuối đời

Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên niên (1585), ông tạ thế tại quê nhà ở tuổi 95, đây là tuổi thọ hiếm có đương thời. Trước khi qua đời, ông còn dâng sớ lên vua Mạc: "... Thần tính độ số thấy vận nước nhà đã suy, vận nhà Lê đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo. Song nhân giả có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng được thỏa lòng". Bấy giờ vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Ứng vương Mạc Đôn Nhượngcùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang đã nói lên sự trân trọng rất lớn của triều Mạc với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triều đình lại sai cấp ruộng tự điền trăm mẫu, đồng thời cấp ba nghìn quan tiền để lập đền thờ ông tại quê nhà, đích thân vua đề chữ lên biển gắn trước đền thờ là "Mạc Triều Trạng nguyên Tể Tướng Từ".

Gia đình và hậu duệ

Theo bản Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm 1743, Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả thảy ba người vợ và 12 người con, trong đó có 7 người con trai. Cũng giống như cha, hầu hết các con trai của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều theo phò tá nhà Mạc. Bởi vậy sau khi nhà Mạc bị thất thủ dưới tay nhà Lê-Trịnh (1592), con cháu ông đều phải thay tên đổi họ, li tán thập phương. Một chi họ do người con trai cả của ông là Hàn Giang hầu Nguyễn Văn Chính đứng đầu đã di cư về vùng Trường Yên thuộc đất Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay và đổi từ họ Nguyễn sang họ Giang nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh. Lúc sinh thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cử người con trai thứ 7 (con trai út) dẫn người cháu đội bát hương sang sinh cơ lập nghiệp ở làng An Tử Hạ, xã Kiến Thiết bên quê ngoại để trông coi phần mộ và thờ phụng ông bà ngoại Nhữ Văn Lan cùng mẹ Nhữ Thị Thục rồi về sau tạo thành một chi họ Nguyễn hậu duệ của Trạng Trình trên đất Tiên Lãng ngày nay.
Trong suốt thời kỳ dài cho tới nay, việc xác định địa điểm an táng thật của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một vấn đề được nhiều thế hệ con cháu ông và các nhà nghiên cứu huyền học - tâm linh (dịch lý, phong thủy, ngoại cảm...) tại Việt Nam quan tâm, đặc biệt kể từ sau khi đền thờ Trạng Trình được tôn tạo và mở rộng thành quần thể di tích lịch sử - văn hoá vào năm 2000. Tuy nhiên cho đến thời điểm khu di tích được Chính phủ xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt vào đầu năm 2016, vẫn chưa có công bố chính thức của các cơ quan có thẩm quyền trước các phương tiện truyền thông. Không ít nhà nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng việc đi tìm mộ thật của ông sẽ mãi là một bí ẩn cũng như nhiều bí ẩn hay những thắc mắc chưa được giải đáp xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của một trong những con người có ảnh hưởng nhất của lịch sử trung đại Việt Nam.
Tác phẩm

Thể loại sáng tác

Thơ chữ Hán

Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng một nghìn bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Trong lời đề tựa cho tập thơ chữ Hán của mình, ông đã viết: "... Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy. Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân" (Bạch Vân am thi tập tiền tự).

Thơ chữ Nôm

Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập), chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, nhưng không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài mà việc đó được thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này. Theo Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm nhưng nay đã bị thất lạc.

Các thể loại khác

Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ (cả chữ Hán và chữ Nôm) còn lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia (bi ký) nổi tiếng như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký, Tam giáo tượng bi minh... Hầu hết bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hư hại qua hàng thế kỷ nhưng nhiều bài văn bia nhờ được người đương thời chép lại mà còn lưu đến hôm nay. Một số văn bia do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình (nằm giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng qua sông Hóa).
Trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm kí Nôm thường mang tên Trạng Trình (Sấm Trạng Trình) và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm.

Giá trị tư tưởng và nghệ thuật
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri... Nhưng ông cũng đồng thời là một tác gia lớn có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn học dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc.
Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký soạn năm 1743, có đôi dòng nhận định về di sản thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: "không cần gọt dũa mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà có nhiều ý vị... như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy". Danh sĩ thời nhà Nguyễn là Phan Huy Chú trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí ở phần Văn tịch chí cũng gần như có chung quan điểm với Vũ Khâm Lân khi nhận xét về thơ văn Trạng Trình: "thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên".
Như PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh (Viện Văn học) đã đánh giá, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ viết nhiều nhất trong năm thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam. Về số lượng mà xét thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà quán quân. Tuy nhiên vấn đề không chỉ là số lượng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có một phong cách thơ riêng không lẫn. Ai cũng biết một nguyên tắc thẩm mỹ quan trọng của thơ thời trung đại là "thơ ngôn chí", nguyên tắc mà các nhà nghiên cứu hiện đại thường xem là làm hạn chế tính thẩm mỹ của thơ và ngay các nhà thơ cổ cũng không phải đều nhất nhất tuân theo. Thế nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tuân theo một cách "triệt để" và với một cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ. Với ông, đề vịnh, tự sự, tự thuật cũng đều để ngôn chí, và phong cách riêng của ông cũng được xác định chính từ những vần thơ ngôn chí ấy. Thơ văn của ông thể hiện sự ưu thời mẫn thế, đậm chất triết lý, giáo huấn nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.
Theo đánh giá của GS. Nguyễn Huệ Chi trong bài tham luận "Bước đầu suy nghĩ về Văn học Mạc", thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh dấu cho sự khởi đầu của một hình thức tư duy mới trong tiến trình hoàn thiện thơ ca trung đại Việt Nam. Đó là tư duy thế sự. Thơ vẫn mang tính trữ tình nhưng là "trữ tình lý trí". Nó mang hình thức không phải là tư duy cảm tính mà là tư duy lý tính, nhìn thẳng vào xã hội nên gọi là tư duy thế sự. Bởi vậy thơ có tính phát hiện, hiện thực rất đáng kể. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn sâu vào các ngóc ngách của xã hội để thấy bức tranh phức tạp của xã hội mà bức tranh ấy diễn ra một cách tự nhiên bởi nó là bức tranh xã hội có thực. Vì là tư duy thế sự nên cũng nhìn sâu vào tâm lý con người. Trong khi ở thời trước đó (điển hình là thời của Lê Thánh Tông) mọi thứ trong xã hội đều được ước lệ hoá, công thức hoá, được mỹ hoá thành một xã hội chung chung đâu cũng như nhau.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người xứng đáng kế thừa và phát triển truyền thống thi ca dân tộc kể từ sau thời Nguyễn Trãi, góp phần giúp nó đạt đến mức độ hoàn thiện cao dưới thời Nguyễn Du, đồng thời bổ sung vào đó đậm đặc hơn, chất triết lý, suy tưởng và giáo huấn, để thơ trở thành một công cụ hữu ích, phục vụ con người, phản ánh hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng một cách sâu sắc, với cái nhìn khái quát của một triết gia, trong đó có những chiêm nghiệm từng trải của cá nhân ông. Giàu chất trí tuệ, thơ ông là những khát vọng muốn khám phá những quy luật của thiên nhiên, xã hội và của cả con người, nhằm tự vượt thoát ra khỏi những bế tắc của một thời và có ảnh hưởng sâu sắc tới tận ngày hôm nay, cả về tư tưởng và nghệ thuật của thơ, cả về tầm vóc văn hóa và nhân cách của một nhà thơ, được thể hiện rõ nét nhất qua Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các học giả như GS. Nguyễn Huệ Chi (Viện Văn học) và PGS.TS. Trần Nguyên Việt (Viện Triết học) có chung quan điểm khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người mở đầu cho tư duy biện chứng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam dưới cái nhìn mang đậm tính triết học thể hiện qua thơ văn của ông.
Ngoài những sáng tác thơ ca còn lưu truyền, những văn bia do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá không chỉ có giá trị về mặt lịch sử hay khảo cổ mà còn chứa đựng nhiều giá trị về mặt tư tưởng cũng như nhân sinh quan của ông. Một trong số những bài văn bia có giá trị nhất là bài đề tại quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn với nội dung như sau: "... Tôi viết biển đề tên Quán Trung Tân. Có người hỏi tôi: Quán tên là Trung Tân có ý nghĩa như thế nào? Tôi trả lời rằng: Trung là đạo trung, giữ được toàn Thiện là Trung, trái lại thì không phải là Trung. Còn Tân là bến để đậu, biết chỗ bến đậu đúng thì là bến chính, nếu đậu sai chỗ là bến mê... Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ chí Thiện... Xin ghi vào đá để lưu lại lâu dài. Tháng Mạnh xuân, niên hiệu Quảng Hoà thứ ba (1543) Tiến sĩ cập đệ khoa Ất Mùi (1535) Lại bộ Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ Tư chính Khanh Trung Am, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn" (Bản dịch của nhà sử học Ngô Đăng Lợi). Qua bài văn bia này, ông không chủ trương trung với một cá nhân nào dù đó là một ông vua, mà là trung với lẽ phải, với chân lý, với điều thiện và với nghĩa vụ mà mình phải thực hiện.

Di ngôn, bút tích

  • Ôi, nói tâm là nói về cái chỗ mà chí đạt tới vậy, mà thơ lại là để nói chí. Có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh, có kẻ chí để ở sự nhàn dật. Tôi lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ phu, lúc về già chí thích nhàn dật, lấy cảnh núi non sông nước làm vui, rất là vụng về trong nghề thơ. Tuy nhiên, cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy, mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vinh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được cả thảy một nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân. (Bạch Vân am thi tập tự)
  • Quán dựng xong, đề biển là Quán Trung Tân. Có người hỏi: lấy tên quán như vậy ý nghĩa thế nào? Ta trả lời rằng: Trung nghĩa là Trung Chính vậy. Giữ được toàn vẹn Tính Thiện của mình là Trung vậy, không giữ toàn vẹn được tính Thiện của mình thì không phải là Trung vậy. Tân tức là Bến vậy. Biết chỗ dừng đó là đúng bến, không biết chỗ dừng thì là lạc bến vậy. Tên gọi của quán này đại thể là như thế. Như trung với vua, hiếu với cha mẹ, thân ái với anh em, hòa hợp vợ chồng, tín với bạn bè, đó là Trung vậy. Đối diện với của cải mà không tham, thấy lợi mà không tranh giành, vui với điều thiện mà bao dung được người, lấy tình thực mà ứng đãi với mọi vật, đó cũng là Trung vậy... Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện vậy. (Trung Tân quán bi ký 中津館碑記, 1543)
  • Do tự ràng buộc ở bẩm khí, bị che lấp vì vật dục, có kẻ không giữ được trọn vẹn như thuở đầu mới sinh ra, trở nên kiêu sa, biển lận, gian tà, thiên lệch, không có điều gì không làm. Ở triều đình thì tranh nhau cái danh, ở chợ búa thì giành nhau cái lợi. Khoe là sang thì xe mát quán ấm, khoe là giàu thì nhà múa lầu hát. Thấy người chết đói dọc đường không dám bỏ một đồng tiền ra cứu giúp. Thấy nơi trống trải không có gì che mưa, không dám bỏ một bó tranh để che đậy. Điều thiện không được tu dưỡng đã lâu vậy... May mà trong làng người hướng về điều Thiện chưa hề mất hết. Các cụ già cùng ta khuyên nhau làm điều thiện: bắc cầu, làm chùa, làm quán, chốn chốn đều được tu sửa. Ta cũng lấy làm vui mừng về điều ấy, trong lòng thường khen ngợi. (Trung Tân quán bi ký 中津館碑記, 1543)
  • ...Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568)
  • Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân (Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giả của Đoan Quận công Nguyễn Hoàng)[9]
  • Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế (Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giả của vua Mạc)
  • Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong (Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về mối quan hệ giữa vua  và chúa Trịnh)
  • Vạn lý Đông minh quy bả ác / Ức niên Nam cực điện long bình (trích từ bài "Cự Ngao Đới Sơn" trong "Bạch Vân Am Thi Tập")[10]
  • Tứ bách niên tiền, chung phục thuỷ / Thập tam thế hậu, dị nhi đồng (Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về con cháu họ Mạc)[11]
  • Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại / Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam (Thơ gửi Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải)
  • Tiền trình vĩ đại quân tu ký / Thùy thị phương danh trọng Việt Nam (Thơ gửi Trạng nguyên, Thư Quốc công Nguyễn Thiến)
  • Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ / Hưng tộ diên trường ức vạn xuân (Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về thời vận mới của nước Việt)[12]
  • Cổ lai quốc dĩ dân vi bản / Đắc quốc ưng tri tại đắc dân (Thơ chữ HánCảm hứng)[13]
  • Cổ lai nhân giả tư vô địch / Hà tất khu khu sự chiến tranh (Thơ chữ Hán)[14]
  • Lão lai vị ngải tiên ưu chí / Đắc táng cùng thông khởi ngã ưu (Tự thuật, thơ chữ Hán)[15]
  • Nho quan tự tín đa thâm ngộ / Đình thực thùy năng vị quốc mưu (Thơ chữ Hán, Ngụ hứng)[16]
  • Tất cánh dục cầu ngô lạc xứ / Tri ngô hậu lạc tại tiên ưu (Thơ chữ Hán, Ngụ hứng)[17]
  • Ưu thời thốn niệm bằng thùy tả / Duy hữu hàn san bán dạ chung (Tân quán ngụ hứng, thơ chữ Hán)[18]
  • Duy thiên sinh chưng dân / Bão noãn các hữu dục (Tăng thử, thơ chữ Hán)[19]
  • Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ? / An nhàn ngã thị địa trung tiên[20]
  • Chín mươi thì kể xuân đà muộn / Xuân ấy qua thì xuân khác còn (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 41)
  • Có thuở được thời mèo đuổi chuột / Đến khi thất thế kiến tha bò (Thơ chữ NômBài số 75)
  • Thớt có tanh tao ruồi đậu đến / Ang không mật mỡ kiến bò chi (Thơ chữ Nôm, Bài số 53)
  • Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa / Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi (Thơ chữ Nôm, Bài số 52)
  • Thế gian biến cải vũng nên đồi / Mặn, nhạt, chua, cay, lẫn ngọt bùi (Thơ chữ Nôm, Bài số 77)
  • Làm người hay một chớ hay hai / Chớ cậy rằng hơn, chớ cậy tài (Thơ chữ Nôm, Bài số 65)
  • Làm người chớ thấy tài mà cậy / Có nhọn bao nhiêu lại có tù (Thơ chữ Nôm, Bài số 11)
  • Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ / Người khôn, người đến chốn lao xao (Thơ chữ Nôm, Bài số 79)
  • Làm người có dại mới nên khôn / Chớ dại ngây si, chớ quá khôn (Thơ chữ Nôm, Bài số 94)
  • Chớ cậy rằng khôn khinh rẻ dại / Gặp thời, dại cũng hoá ra khôn (Thơ chữ Nôm, Bài số 94)
  • Thuở khó dẫu chào, chào cũng lảng / Khi giàu chẳng hỏi, hỏi thời quen (Thơ chữ Nôm, Bài số 5)
  • Đạo ở mình ta lấy đạo trung / Chớ cho đục, chớ cho trong (Thơ chữ Nôm, Bài số 104)
  • Lưỡi thế ngẫm xem, mềm tựa lạt / Miệng người toan lại, sắc như chông (Thơ Nôm, bài 127)
  • Rượu đến cội cây ta sẽ uống / Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
  • Có ai biết được lòng tri kỷ / Vời vợi non cao nguyệt một vừng

Tiên tri và sấm ký

Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số... Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình Quốc công. Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra đến 500 năm sau, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam.
Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn gọi là "Sấm Trạng Trình" là những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến khoảng năm 2019). Đây là những dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan theo lẽ tự nhiên "thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả". "Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa" (lời Nguyễn Thiếp – danh sĩ thời Lê mạt). "An Nam lý học hữu Trình Tuyền" (lời Chu Xán- sứ giả của triều Thanh). Sấm ký, giai thoại và giải đoán chứa đựng nhiều thú vị về một trí tuệ bậc Thầy kỳ tài muôn thuở, nặng lòng yêu nước thương dân và sâu sắc hiếm thấy.
Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu "cảm đề" và 248 câu "sấm ký". Đây là bản trích ở bộ "Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển" (tập 2) của Trịnh Văn Thanh – Sài Gòn – 1966. Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu liên quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội và 13 tựa sách quốc ngữ về sấm Trạng Trình xuất bản từ năm 1948 đến nay. Bản tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 mà hiện nay vẫn chưa tìm được.
Sấm ký gắn với những giai thoại và sự thật lịch sử. Nhiều nội dung trong sấm ký hiện đã được giải mã, chứng minh tính đúng đắn của những quy luật- dự đoán học trong Kinh Dịch và Thái Ất thần kinh". Đến nay đã có 36 giai thoại và sự thật lịch sử về Sấm Trạng Trình đã được giải mã.
Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, vua Phật Trần Nhân Tông (1258- 1308) là người rất coi trọng phép biến Dịch. Người đã viết trong "Cư trần lạc đạo":"Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim". Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với "Thái Ất thần kinh","Sấm ký","Bạch Vân Am thi văn tập", "huyền thoại và di tích lịch sử" đã lưu lại cho dân tộc Việt Nam và nhân loại một tài sản văn hoá vô giá.
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (có tài liệu viết là "khả dĩ dung thân") nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc "Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể" (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằnggần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong".
Theo một số nhà sưu tầm và nghiên cứu, Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được Trạng Trình dự báo qua câu thơ: "Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long". ở câu 1, "đầu Thu" là tháng 7 Âm lịch, "gà" nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện diễn ra, "gáy xôn xao" nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn người. Ở câu 2, "Trăng xưa" nghĩa là "cổ nguyệt" theo Hán tự, ghép lại thành từ "hồ", là họ của Hồ Chí Minh. "Sáng tỏ soi vào Thăng Long" là sự kiện Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà Nội[21].

Ảnh hưởng và di sản

Những đóng góp trong tiến trình phát triển của ngôn ngữ văn chương và lịch sử tư tưởng Việt Nam

Là một trung thần của nhà Mạc, triều đại đối địch hoàn toàn với quyền lợi của các dòng họ thế lực Lê-Trịnh-Nguyễn (vốn cùng phát tích từ xứ Thanh) của nhà Lê trung hưng và cả nhà Nguyễn về sau, bởi vậy sau khi nhà Mạc thất thủ (1592), sự nghiệp cũng như di sản văn hóa của Nguyễn Bỉnh Khiêm không tránh được cái nhìn thiên kiến của đại bộ phận những sử gia, học giả dưới thời cai trị của các họ Lê-Trịnhrồi họ Nguyễn trong nhiều thế kỷ. Như nhà nghiên cứu Trần Khuê (Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc, 1991) đã lưu ý: "...Cũng như việc Lê Quý Đôn ghi đủ loại chư thần và nghịch thần, và trong Kiến văn tiểu lục, mục Tài phẩm (tài năng và phẩm hạnh), ông ghi mấy chục danh nhân kể cả một số người đã làm quan với “ngụy Mạc” như Lễ bộ thượng thu Hà Nhậm Đại, nhưng tài năng, phẩm hạnh, hành trạng… của Lại bộ thượng thư Thái phó Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thì ông không ghi chép. (Có những nhân vật ít nổi tiếng như Lê Bá Ly mà Lê Quý Đôn ghi về tài năng phẩm hạnh 2 trang giấy đặc tới hơn 500 chữ, một số nhân vật khác cũng còn được một vài trăm chữ. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm thì không được ghi tiểu truyện). Lê Quý Đôn chỉ ghi về Nguyễn Bỉnh Khiêm rất sơ sài: Một lần ghi về thi đỗ, một lần ghi về “trí sĩ”, một lần ghi về “tên tác phẩm”. Thế thôi? À, có thêm một lần ông ghi ý kiến của Chu Xán về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hồi đầu niên hiệu Khang Hy, nhà Thanh sai Minh Đồ và Chu Xán sang nước ta sách phong, lúc ấy là năm Chính Hòa thứ tư (1683)." Những cái nhìn theo hướng như vậy cũng được phần lớn giới nghiên cứu hiện đại ở Việt Nam duy trì cho tới đầu thập niên cuối cùng của thế kỷ 20. Trong suốt một thời gian dài cho tới cuối thập niên 1980, cách đánh giá của giới nghiên cứu “chính thống” tại Việt Nam về sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm bị ảnh hưởng lớn bởi cái nhìn thiên kiến về vai trò lịch sử của vương triều Mạc bắt đầu từ thời Lê trung hưng (1533) cho tới tận trước thời kỳ Đổi Mới.
GS. Vũ Khiêu trong bài viết “Kỷ niệm 400 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Những vấn đề khoa học trong nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm” (1985) đã có những đánh giá mang tính tổng kết về những đóng góp quan trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong dòng chảy của lịch sử thơ văn Việt Nam: “...Trước hết, phải thấy rằng suốt bao nhiêu thế kỷ học chữ Hán và làm thơ bằng chữ Hán, các nhà trí thức Việt Nam trước những khó khăn về ngôn từ và thể loại đã lẩn tránh việc cố gắng làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ. Trước sự sáng tạo của Nguyễn Thuyên, sự quan tâm đặc biệt của Nguyễn Trãi, thành quả bước đầu của Lê Thánh Tông và nhóm Tao Đàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã suốt cuộc đời dành bao tâm huyết để làm thơ bằng tiếng Việt. Không chỉ nói với đồng bào mình những điều muốn nói. Ông cũng như Nguyễn Trãi đã đem hết nhiệt tình xây dựng nền văn học dân tộc mà lòng yêu nước và óc tự cường đã hằng ngày thôi thúc các ông. Với một di sản lớn lao mà ông để lại, thơ Nôm của ông đã đánh dấu một chặng đường quang vinh trong lịch sử văn học Việt Nam. Thơ văn ông vừa mang những nét mộc mạc và rắn chắc của thơ Nguyễn Trãi, vừa tiếp thu truyền thống trau chuốt và nhuần nhuyễn của thơ Lê Thánh Tông và nhóm Tao Đàn. Thơ của ông chính là sự chuẩn bị cần thiết cho sự phát triển rực rỡ của thơ Nôm thế kỷ XVIII. Có lẽ đầy lòng tự hào về tinh hoa và tiềm năng của dân tộc trong thơ ca dân gian Việt Nam mà ông đã đưa vào tràn ngập trong thơ ông những lời đẹp nhất của ca dao, tục ngữ. Thơ của ông hướng vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân mà ông gần gũi và yêu quý. Có lẽ vì thế mà thơ Nôm của ông ít những lời sáo rỗng về phong, hoa, tuyết, nguyệt, mà lại đi vào lòng người với những nét rất thân thương của những đồ đạc, những rau cỏ, những chim muông gặp gỡ hằng ngày... Phải chăng vì gần gũi với đời sống như thế, ông đã thuộc tên từ cụ già đến trẻ em, đi vào niềm vui và nỗi lo của từng người, và từ đó đưa vào thơ một tính nhân dân sâu sắc... Di sản văn học của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tấm gương soi của xã hội ông, của cuộc đời ông.”
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc trong một bài phân tích cụ thể về phong cách thơ ca của Nguyễn Bỉnh Khiêm đăng trên Tạp chí Sông Hương (số 35, T.1&2-1989) đã nhận định: “...Ông là một ẩn sĩ nhưng không phải một ẩn sĩ Ấn Độ chạy vào núi sống để thờ thần linh, không phải một ẩn sĩ Trung Quốc quay lưng với chính trị, tự thổi phồng mình, tự tôn thờ mình. Thơ ông chẳng có gì là huênh hoang của thơ triết lý Trung Quốc. Ông quay về sống trong vòng tay của làng mạc họ hàng, dạy học trò, bình dị, khiêm tốn, như cha ông chúng ta... Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế. Con người lỗi lạc về lý học đến mức sứ thần Trung Quốc là Chu Xán phải phục chẳng hề nhắc đến một thuật ngữ lý học: tính, khí, ly, tâm... Nhân vật mà truyền thuyết nâng lên địa vị một tiên tri, biết trước hậu thể năm trăm năm chẳng hề nói bóng gió gì đến hậu vận. Ông trạng nguyên hay chữ nhất nước chẳng thiết gì đến chữ nghĩa, điển tích từ chương. Con người được cả thời đại tôn sùng chẳng buồn nhắc tới danh tiếng của mình. Thậm chí ông không nhắc đến cá nhân mình. Đây là một phong cách lạ, trước ông không có mà sau ông cũng không. Nhưng ông hiểu được cái bí quyết để giành được lòng tin của hậu thế. Phải gạt bỏ mọi "bánh vẽ" của cuộc đời (công danh, chức tước, chữ nghĩa, trang tức) để xuất hiện giản dị và chân thành. Không rên la, thậm chí không thở dài, không đóng vai một người thuyết phục, giáo dục. Hãy quên cái con người của cương vị xã hội (bằng tôi, nhà sư, nho sĩ...) để làm con người trong lòng mọi người. Chính vì vậy thơ ông lần đầu tiên trong văn học ta nói với mọi người. Nếu muốn nói đến ý nghĩa triết học của thơ ông thì nó là ở đấy... Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải loại thơ đọc để nhìn, để nghe. Ông là con người duy nhất của văn học ta chủ trương một đường lối nghệ thuật riêng: nghệ thuật là để giúp con người tìm lại được chính mình, chân thành với mình và với xã hội. Khi nào ta hiểu được nhu cầu ấy, ta sẽ biết ơn phu tử và sẽ hiểu được giá trị của nhà thơ kiệt xuất.” (Tìm hiểu phong cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua một bài thơ, Tạp chí Sông Hương, 1989)
Như PGS. Nguyễn Hữu Sơn (Viện Văn học) đã đánh giá: “Bên cạnh nhiều tác gia văn học lớn ở thế kỷ XVI như Nguyễn Dữ, Nguyễn Hàng, Hà Nhậm Đại, Phùng Khắc Khoan, Hoàng Sĩ Khải..., Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi lên như một hiện tượng văn hoá tiêu biểu, một “cây đại thụ” văn hoá dân tộc thế kỷ XVI. Tư cách tác gia văn học - “cây đại thụ văn hoá” thể hiện trước hết trên phương diện số lượng tác phẩm, mức độ thâu thái các giá trị văn hoá tinh thần thời đại cũng như khả năng kết hợp giữa việc tinh lọc, nâng cấp vốn tri thức bác học với việc phổ cập, tạo ảnh hưởng trong toàn bộ đời sống xã hội... Nguyễn Bỉnh Khiêm là sản phẩm văn hoá điển hình của thế kỷ XVI - một thế kỷ nặng về chinh chiến và nhiều biến động nên phải lựa chọn một phương thức ứng xử văn hoá khả dĩ có thể đáp ứng được nhu cầu đời sống tinh thần vốn muôn phần phức tạp. Trên nhiều phương diện, ông trở thành thước đo thực trạng đời sống tinh thần dân tộc ở một chặng đường lịch sử, cây đại thụ văn hoá toả bóng xuống cả thế kỷ. Một mình ông buộc phải đóng nhiều vai diễn. Đồng thời với vốn kiến thức cao siêu, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại vẫn bộc lộ cái nhìn nhân ái, dân dã, hoà đồng với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá, làng thôn, trăng trong gió mát. Điều này góp phần giải hoà dòng thơ duy lý, khơi mở nguồn cảm hứng nghệ sĩ thanh cao. Điều cũng rõ ràng là mặc dù mang trong mình đầy những lẽ bất cập do hoàn cảnh thời đại quy định song Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn hiện diện như một nhân cách lịch sử chói sáng, một cây đại thụ văn hoá chính bởi sự kết tinh vốn kiến thức sâu rộng trên cơ sở một tấm lòng chính trực, gắn bó sâu sắc với cội nguồn văn hoá dân tộc. Ông là hiện thân của mĩ học phong kiến cả trên phương diện nhân văn lẫn mặt hạn chế của nó.”
Nhân kỷ niệm 425 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà thơ Trần Nhuận Minh (Ủy viên Hội đồng Thơ, Hội Nhà văn Việt Nam) trong bài viết “Nguyễn Bỉnh Khiêm: Nhà thơ lớn bóng trùm nhiều thế kỷ” (Báo Hải Dương Điện tử, 2010) đã phân tích một số điểm nổi bật trong di sản thi ca của ông: “Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc. Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng 1.000 bài, nay còn khoảng 700 bài. Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập, chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, chúng ta không biết có bao nhiêu bài, hiện còn khoảng 170 bài, trong đó vài chục bài lẫn với thơ Nôm Nguyễn Trãi (1380-1422)... Ông đã kế thừa xứng đáng truyền thống thơ Lê Thánh Tông, đặc biệt là thơ Nguyễn Trãi và bổ sung vào đó, đậm đặc hơn, chất triết lý, suy tưởng và giáo huấn, để thơ trở thành một công cụ hữu ích, phục vụ con người, phản ánh hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng sâu nặng lẽ đời, với cái nhìn khái quát của một triết gia, trong đó có những chiêm nghiệm từng trải của cá nhân ông. Giàu chất trí tuệ, thơ ông là những khát vọng muốn khám phá những quy luật của thiên nhiên, xã hội và của cả con người, nhằm tự vượt thoát ra khỏi những bế tắc của một thời và có ảnh hưởng sâu sắc tới tận ngày hôm nay, cả về tư tưởng và nghệ thuật của thơ, cả về tầm vóc văn hóa và nhân cách của một nhà thơ.... Trong thơ Việt Nam, có lẽ ông là người sáng lập ra loại thơ diễn giải minh họa và tuyên truyền, mà sau này ta thấy càng ngày càng phổ biến trong nền thơ hiện đại, chảy thành một dòng lớn trong thơ Việt Nam thế kỷ thứ XX, với nhiều tác phẩm xuất sắc của những tên tuổi lớn... Đặc biệt, lẽ đời, nhân tình thế thái, được ông trình bày vô cùng đa dạng, phong phú, có đủ các mùi vị, sắc thái. Đây là một đóng góp đặc sắc và có thể nói là độc đáo của ông trong thơ Việt Nam, tạo thành một từ trường, khiến ông trở thành một trong những ngọn núi lớn của thi ca dân tộc. Ở đây, màu sắc triết học đã tan vào cảnh vật và tâm trạng, làm cho nó có sức lan tỏa xa rộng, bền vững lâu dài. Nhiều câu thơ của ông ở loại này đã trở thành danh ngôn, thành ngạn ngữ, có cuộc sống riêng, độc lập với chính người đã sinh ra nó. (...) Một nội dung quan trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là chữ “nhàn”. Chữ “nhàn” cũng đã xuất hiện trong thơ Chu Văn An, Nguyễn Trãi và một số nhà thơ khác. Đây là một xu hướng sáng tác văn chương của các sĩ phu ở nhiều thời kỳ, thể hiện sự bất hợp tác với chính quyền phong kiến và sự phủ nhận hiện thực thối nát của xã hội đương thời. Vì thế, giá trị khách quan của nó là tích cực. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chữ “nhàn” trở thành một ám ảnh nghệ thuật, bởi nó không chỉ bộc lộ những tâm trạng riêng của ông, gắn liền với thời cuộc, mà còn thể hiện một quan niệm triết học của ông, một cách ứng xử của ông trước cuộc đời. Nội dung chữ “nhàn” trong thơ ông phức tạp hơn các nhà thơ khác, và nét chủ yếu không phải là tiêu cực mà là phép hành tàng của nhà nho trong lẽ xuất xử trước thời cuộc mà thôi.”
Trong bài viết “Bước đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc”, GS. Nguyễn Huệ Chi có những phân tích: “Nhìn trong xu thế chung, văn học Việt Nam có một yêu cầu nội tại để tạo nên bước nhảy vọt thật sự kể từ thế kỷ XVI trở đi, dấu mốc nhảy vọt ấy rơi đúng vào văn học triều đại Mạc. Đây là cái ngẫu nhiên mà cũng là cái tất yếu của lịch sử. Thời đại Lê sơ là đỉnh cao của độc tôn Nho giáo và thể chế quân chủ tập trung, phải chọn một vị vua làm biểu tượng để cho dân tôn thờ, thần thánh hóa, đặc điểm chung của văn học bởi vậy là hướng thượng. Phải quay nhìn lên ông vua và lấy ông vua làm hình mẫu, đem cảm hứng “vua sáng tôi hiền” kết nối thành động lực sáng tác. Đến triều đại Mạc, sau bao nhiêu chặng “vua quỷ”, “vua lợn” của triều Lê sơ làm người ta chán nản, tự nhiên hình tượng cao quý là các ông vua bị lu mờ, bị hạ thấp từ trong tiềm thức. Và cảm hứng “thần thánh hóa” đấng minh quân mất dần chỗ đứng. Người ta không còn hào hứng ngẩng lên, “hướng thượng” trong sáng tác của mình. Tình trạng này gây ra một phản ứng trái ngược trong vô thức: người sáng tác bắt đầu từ chỗ nhìn lên nay quay nhìn trở xuống. Và khi nhìn xuống hạ dân thì một thế giới khác chợt hiện rõ trong tầm mắt. Họ bỗng nhìn thấy con người với bao nhiêu sự phức tạp, thánh thiện có mà tầm thường cũng có, ở chính đối tượng gần gũi nhất với mình ấy. Con người được phơi bày với những dục vọng, toan tính, những nét thấp hèn và cao cả, những tình cảm riêng tư, cá nhân. Đó chính là một phát hiện lớn của văn học thời Mạc, mở đầu cho một dòng văn học chạm chân vào hiện thực. Văn học thay đổi chức năng mà không tự biết: nó mô tả xã hội dưới góc nhìn đời tư và đời thường.
Trước đây, thông qua tiêu chí “cái cao cả”, nhà văn nhìn xã hội dầu không muốn cũng như được đánh bóng lên, được ước lệ hóa, công thức hóa, mỹ hóa thành một xã hội vàng son song trừu tượng, đâu cũng như nhau. Nhưng bây giờ nhìn vào khía cạnh đời tư đời thường thì cũng xã hội ấy lại hiện ra dưới muôn hình vạn trạng... Đó là cả một xã hội phức tạp. Nó không thuần nhất là xã hội nông nghiệp nữa mà bắt đầu có buôn bán, có thủ công, có làm giàu, và có đủ thứ lục đục xoay quanh nó, có cuộc đấu tranh giữa quyền lực và không có quyền lực, giữa ham muốn và bất lực. Không loại trừ cuộc đấu tranh muôn thuở về đạo đức giữa cái thiện và cái ác. Một xã hội phong phú hơn nhiều so với bức tranh xã hội thời Lê sơ mà văn học để lại.
Tính quy định vẻ đẹp tức là cái sắc màu sống thực của thời đại này phản chiếu trong văn học, thể hiện tiêu biểu ở tập truyện “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ cũng chuyển cả sang thơ, làm cho thơ ca mang một phương thức tư duy mới. Trước đây, thơ là thơ trữ tình. Thơ bây giờ cũng là thơ trữ tình nhưng là trữ tình - lý trí. Nó rời bỏ tư duy cảm tính bước sang địa hạt tư duy lý tính. Và hướng cái nhìn vào xã hội, ấy là tư duy thế sự. Thơ trở nên có tính phát hiện hiện thực rất sắc mà cây bút tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm... Chúng ta thấy phong cách tư duy nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khác Nguyễn Trãi. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn sâu vào các ngóc ngách của xã hội để nhận diện bức tranh phức tạp của xã hội. Bức tranh ấy diễn ra một cách tự nhiên bởi nó là bức tranh xã hội có thực... Do cái nhìn thế sự, cái nhìn khám phá tâm lý sâu sắc, do xã hội phức tạp, có công, có thương, buôn bán phát triển, nên văn học nhìn thấy tiếng va xiết của đồng tiền. Đây chính là giai đoạn bắt đầu nói đến vai trò của đồng tiền. Cũng chính Nguyễn Bỉnh Khiêm xác nhận vai trò đồng tiền như một tiếng động lạ, vang lên cái âm thanh đáng sợ của nó: “Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền” (thơ Nôm). Đồng tiền hiện ra với tất cả vẻ quỷ quyệt khinh người. Nó có đủ sức mạnh làm tha hóa xã hội. Nhưng bên cạnh đó nó cũng có mặt tích cực mà Nguyễn Bỉnh Khiêm có nói đến: “Kẻ khó nhờ ơn, có kẻ giàu” (thơ Nôm).”
Nhìn trong toàn bộ tiến trình phát triển và hoàn thiện thơ văn chữ viết của Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đi đầu trong việc khai phá một số chức năng mới, hình thức tư duy mới của thơ văn trung đại Việt Nam, đánh dấu một bước tiến quan trọng so với các thời kỳ trước ông, bằng cách bổ sung vào dòng chảy thơ ca dân tộc những đặc tính còn khá mới (hoặc chưa từng được quan tâm đúng mức ở những thời kỳ trước ông) như tính triết lý, tính thế sự và tính trào phúng được vận dụng linh hoạt bên cạnh tính trữ tình vốn quen thuộc. Và như vậy, ông là người có công khơi mở những hướng đi mới, những hướng tư duy mới cho nhiều tên tuổi nổi bật của thơ văn dân tộc ở các thế kỷ sau.

Nguyễn Bỉnh Khiêm trong sự chuyển biến về nhận thức và ứng xử chính trị của giới trí thức phong kiến Việt Nam

GS. Nguyễn Huệ Chi (Bước đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc) đã khái quát: “Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học thời Mạc là thời đại này đã bước đầu xây dựng nên hình tượng con người tự do. Ở thời đại Lê sơ vì lực hút của triều đình phong kiến, Nho giáo độc tôn mạnh, nên gần như hút về tâm là quỹ đạo chủ đạo. Đến một Nguyễn Trãi vĩ đại là thế mà khi bị ruồng rẫy về Côn Sơn bao giờ lòng cũng đau đáu nghĩ đến vương triều, hễ được vời ra thì ra lại ngay. Đến thế kỷ XVIII lại có một hiện tượng ngược lại là người ta bỏ chạy khỏi triều đình, bỏ chạy để về sống ẩn, chỉ có mình với mình. Đây là thời đại ly tâm. Vào thời đại Mạc thế kỷ XVI thì khác, người ta không bị hút về tâm nữa nhưng cũng không hẳn ly tâm, nhờ đó tạo nên chính sự tự chủ cho người thức giả. Mình muốn ra thì ra, muốn về thì về, biểu trưng rõ nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm ra thi với Mạc rồi sau 7 năm, thấy cần phải xuất thế ông bèn chủ động rút lui, bấy giờ Mạc vẫn chưa suy thoái. Về một thời gian ông lại ra giúp. Chính phong thái ung dung chủ động kia đã tạo nên tiếng nói tự do, tự tại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và thơ văn của rất nhiều người như Nguyễn Hãng, Nguyễn Dữ… Dòng mạch tư duy tự do tự tại quy tụ nên hình tượng con người không bị lệ thuộc trăm phần trăm vào quyền lực nữa mà ít hay nhiều đã là con người giải thoát. Cần phải thừa nhận rằng trong cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có một phương diện gọi là tự tại. Nhàn ở đây không là ẩn, chưa phải xã hội thối nát đến mức mình không thể chấp nhận nổi mà trở về chăm nom vài luống cúc, hoặc lẩn trốn vào cửa thiền, hoặc tìm quên trong thú vui cần câu, chén rượu. Nhàn, bởi mình cảm thấy phải làm chủ cuộc sống của mình, cho nên tự mình trở về an nhàn nghỉ ngơi. Nhưng khi nhà Mạc kêu gọi đi đánh bọn phản loạn thì Nguyễn lại hăng hái ra giúp. Nhàn trong trường hợp này là nhàn tự tại. Nhàn tự tại chính là nét khác với nhàn ở nhiều thời đại khác là thứ nhàn chỉ muốn lánh đục, lánh triều đình, “dũng thoái”. Nhàn tự tại không cố chấp mà hồn nhiên hơn.”
Như nhà phê bình Đỗ Lai Thúy trong bài tiểu luận “Nguyễn Bình Khiêm, lựa chọn như một lối ứng xử” (Tạp chí VHNT số 334, tháng 4-2012) đã nhận định, Nguyễn Bỉnh Khiêm, xét về mặt loại hình nhân cách hoặc mẫu người văn hóa có thể xem là điểm trung gian trong sự biến chuyển từ mẫu nhà nho - con người quân tử như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông... sang mẫu nhà nho - con người tài tử như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… Nhưng khác Nguyễn Trãi ở chỗ Ức Trai sống vào giai đoạn Nho giáo chưa chính thức trở thành quốc giáo, chưa lên ngôi chính thống, độc tôn. Và khác Lê Thánh Tông ở chỗ Nho giáo thời Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy vẫn là chính thống, vẫn là độc tôn, nhưng đang suy vi vì chiến tranh, đất nước bị chia cắt, nhân dân cực khổ và nổi loạn. Nhà nho quân tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, vì thế, có những nét mới, đặt ra những vấn đề mới. Với một nhà nho quân tử, vấn đề cốt yếu, mang tính lý tưởng vẫn là trung thành với nhà vua chính thống (trung thần bất sự nhị quân). Nhưng ở thời Nguyễn Bỉnh Khiêm, các khái niệm “vua” và “nước” (cũng như giữa “vương triều” và “quốc gia”, “quyền lợi gia tộc” và “quyền lợi dân tộc”) không còn trùng khít nữa, quyền lợi của vua mâu thuẫn với quyền lợi của dân, nên việc trung thành với một ông vua ngu tối (hôn quân) sẽ trở thành ngu trung: vấn đề chọn chủ được đặt ra. Sự lựa chọn này trở thành một vấn đề trí thức bắt đầu từ Nguyễn Bỉnh Khiêm với Lê – Mạc, sẽ kéo dài với bao người khác trước sự phân tranh Trịnh – Nguyễn, Tây Sơn – Nguyễn Ánh… Ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm về sau đã trở thành một trong những khuôn mẫu cho nhiều thế hệ nhà nho, trí thức... trong xã hội Việt Nam. Việc Nguyễn Bỉnh Khiêm ra ứng thí dưới triều “ngụy” Mạc, rồi làm quan lớn, rồi tòng chinh theo vua Mạc đánh dẹp “loạn quân”, trong đó có cả dòng dõi nhà Lê-Trịnh-Nguyễn, đã gây nhiều băn khoăn, thắc mắc ở những đầu óc phò “chính thống”. Thế mà Nguyễn Bỉnh Khiêm làm tất cả những điều ấy không hề có một mặc cảm “ý thức hệ” nào, với một trạng thái nhận thức gần như cao nhất trong mọi cách hành xử của bản thân ông.
Trong bài viết “Nguyễn Bỉnh Khiêm trong sự chuyển biến về ứng xử chính trị của trí thức Việt Nam”, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh đã có những phân tích về cách hành xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm trước thời thế, như là hình mẫu khởi đầu cho một quá trình chuyển biến thực sự về nhận thức cũng như hành động của giới trí thức - nho sĩ trong lịch sử phong kiến Việt Nam:
...Rõ ràng, với Nguyễn Bỉnh Khiêm, giới nho sĩ - trí thức Việt Nam đã đạt tới một trình độ nhận thức cũng như khả năng ứng xử chính trị cao hơn so với thời gian trước đó. Sự phân biệt vương triều chính thống với văn hóa truyền thống nơi họ đã minh bạch hơn trước, điều này giúp họ vươn lên thành tầng lớp thể hiện và phản ảnh không những quyền lợi và tương lai của đất nước mà còn cả lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Cần nói thêm rằng với nhân cách và bản lĩnh chính trị của ông, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ mới đứng trong chặng đầu của quá trình chuyển biến toàn diện có thể coi như một trào lưu lịch sử về tập quán ứng xử chính trị của trí thức Việt Nam thời phong kiến.
...Xuất hiện ở một thời kỳ khủng hoảng của thể chế quân chủ và suy thoái của tầng lớp thống trị, sự chuyển biến về ứng xử chính trị của trí thức Việt Nam thời Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tất yếu lịch sử. Trong giới hạn những điều kiện cụ thể của thời đại mình, với chuyển biến ấy, họ đã giữ được vị trí và vai trò truyền thống trong sinh hoạt chính trị của đất nước, vị trí và vai trò đã được lịch sử xác nhận qua truyền thuyết về việc “làm thầy” cho cả ba tập đoàn Mạc, Lê-Trịnh và Nguyễn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dĩ nhiên, bên cạnh sự chuyển biến nói trên, một quá trình phân hóa toàn diện về tư duy và học thuyết chính trị cũng diễn ra trong nội bộ giới trí thức, nhưng nhìn chung thì sự phân hóa này lại tạo điều kiện cho họ qua thực tiễn nhận thức và hoạt động của mình phản ảnh và thể hiện được chính xác hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn các quá trình xã hội trong lịch sử của đất nước cũng như những trào lưu tư tưởng trong đời sống của dân tộc. Đó có lẽ còn là sự chuẩn bị của lịch sử cho người trí thức Việt Nam thích ứng được với những xử cảnh chính trị đặc biệt kiểu “Đã có vua lại có chúa” của chính quyền Lê-Trịnh ở Đàng Ngoài hay tự xưng là Thiên vương song “vẫn theo chính sách nhà Lê” của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỷ XVII-XVIII. Hơn thế nữa, với một Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm của nhà Mạc “ngụy triều” rồi một Hoằng quốc công Đào Duy Từ của họ Nguyễn cát cứ, người trí thức Việt Nam đã chứng tỏ được rằng họ hoàn toàn có khả năng kế thừa truyền thống cũng như thi thố tài năng mà không nhất thiết phải ghép mình vào với vương triều chính thống. Theo thời gian, bước trưởng thành về ứng xử chính trị ấy sẽ dần dần được khẳng định, góp phần tạo ra một truyền thống dân chủ chính trị nơi những người trí thức Việt Nam ngày trước, truyền thống đã đem lại cho lịch sử Việt Nam những Ngô Thì NhậmPhan Huy Ích trong triều đại nông dân Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII và một Cao Bá Quát với ngọn cờ Vũ Thang “Điếu dân phạt tội” ở miền Bắc năm 1851 rồi những Nguyễn Đình ChiểuNguyễn Hữu HuânHồ Huân Nghiệp dưới ngọn cờ cứu nước “chẳng nghe Thiên tử chiếu” ở Nam Kỳ sau Hòa ước 1862.
Sự tự do tư tưởng trong việc chọn lựa con đường sự nghiệp và cách ứng xử linh hoạt trước những biến chuyển thời thế của Nguyễn Bỉnh Khiêm (toàn tâm đi theo nhà Mạc đến cuối đời, một triều đại bị coi là “ngụy triều” tiếm ngôi theo quan điểm Nho giáo truyền thống, mà không theo nhà Lê sơ “chính thống” hay nhà Lê trung hưng sau đó được nhiều nho sĩ đương thời ủng hộ) có thể ít nhiều đã ảnh hưởng đến sự chọn lựa bước đường công danh của các học trò ông như Phùng Khắc KhoanLương Hữu Khánh (cả hai đều theo nhà Lê trung hưng thay vì nhà Mạc).

Nguyễn Bỉnh Khiêm với tư cách một nhà dự báo, hoạch định chiến lược

Sách lược phân vùng ảnh hưởng địa chính trị


Thác Bản Giốc vào mùa mưa nhìn từ Cao BằngViệt Nam. Cao Bằng, như đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu phong thuỷ, được coi là “đất ẩn long”. Thời kỳ trấn giữ của con cháu nhà Mạc trên đất Cao Bằng (1592-1677), theo kế sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm trước khi mất, đã góp phần lớn thu hẹp bớt khoảng cách phát triển về nhiều mặt giữa vùng núi phía bắc thưa thớt dân cư và các khu vực khác của Việt Nam.

Dãy núi Hoành Sơn, nhìn từ Hà TĩnhĐèo Ngang nằm trên dãy Hoành Sơn, một nhánh tách ra từ dãy Trường Sơn chạy ngang ra biển Đông.

Bản đồ Đàng Trong và Đàng Ngoài (1757). Chỉ trong khoảng 2 thế kỷ kể từ thời Nguyễn Hoàng(1558), Đàng Trong đã gần như hình thành một quốc gia riêng biệt, kiểm soát gần 3/5 lãnh thổ Việt Nam ngày nay, xây dựng một cấu trúc kinh tế - xã hội năng động hơn hẳn Đàng Ngoài do nhà Lê-Trịnhcai trị, và hình thành một loạt các trung tâm đô thị mới, bao gồm phủ Gia Định (tiền thân của đô thị Sài Gòn ngày nay).
Nguyễn Bỉnh Khiêm được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các dòng họ Mạc, Trịnh, Nguyễn (nói theo lời của danh sĩ Nguyễn Thiếp là phiến ngữ toàn tam tính) đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với cỗ xe tiến trình của lịch sử Việt Nam (trong đó bao gồm quan hệ Việt Nam – Trung Quốc) và từ đó tác động lớn tới quan hệ địa chính trị của cả khu vực Đông Nam Á từ thời kỳ trung đại (thế kỷ 16) trở về sau.
Cho đến nay vẫn tồn tại những luồng quan điểm khác biệt về tính xác thực của những lời cố vấn nổi tiếng không chỉ được ghi trong sử sách mà cũng được truyền tụng rộng rãi trong dân gian về tài tiên đoán, dự báo đi trước thời đại của Nguyễn Bỉnh Khiêm dành cho các tập đoàn quyền lực phong kiến Mạc, Lê-Trịnh, Nguyễn đương thời. Không ít nhà nghiên cứu phủ nhận việc Nguyễn Bỉnh Khiêm (vốn là một trung thần của nhà Mạc) lại có thể sẵn lòng bày kế cho các họ Lê, họ Trịnh hay họ Nguyễn, vốn là những thế lực đối địch hoàn toàn với họ Mạc. Nhưng xét một cách khách quan và công bằng thì những lời khuyên đó của Nguyễn Bỉnh Khiêm không xung đột lợi ích với nhau. Đúng như danh sĩ Nguyễn Thiếp sống thời nhà Tây Sơn đã ca ngợi: “phiến ngữ toàn tam tính”, nghĩa là lời nói ngắn gọn mà bảo toàn lợi ích cho cả ba họ (Quá Trình Tuyền mục tự). Cũng có nhiều ý kiến cho rằng những lời “mách nước” đó của Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là giai thoại hay truyền thuyết, cũng như quan điểm của nhiều người về nguồn gốc sấm truyền của Trạng Trình chỉ là sáng tác của dân gian hay người đời sau mà thôi. Nhưng có một thực tế là chúng đã được ghi lại trong không ít sử liệu cũng như được lưu truyền qua nhiều đời con cháu của một số dòng họ có liên quan.
Theo Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn: “Vua Lê Trung Tông (1549 - 1557) không có con nối ngôi, đại thần bàn định xem nên lập ai, nhưng chưa quyết được, mới sai người đến hỏi (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Ông không đáp và bảo người nhà rằng: Năm nay đã mất mùa, sao không mau tìm thóc giống cũ mà đem gieo trồng cho kịp thời vụ. Bề tôi nhà Lê suy ý lời nói ấy, bèn quyết kế rước lập vua Anh Tông”.[22] Rồi việc “Khi Trịnh Tùng lăng loàn, có dị chí, ngầm sai người hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về số phận nhà Lê còn dài ngắn như thế nào? Ông không đáp bỏ ra chùa chơi, giả bộ giận các nhà sư bất cẩn, trách mắng rằng: Ngạn ngữ có câu “thờ Phật ăn oản, không biết thờ Phật thì mong gì được ăn oản”. Trịnh Tùng nghe nói mới thôi không cướp ngôi nhà Lê nữa”. Hay như việc “Đức Thái tổ Hoàng đế triều ta (Nguyễn Hoàng) luôn bị họ Trịnh chèn ép bức bách, muốn dời đi nơi khác, đã sai người đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông trả lời: Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân (nghĩa là: Một dải núi ngang có thể dung thân muôn đời được). Sau bản triều xây dựng cơ nghiệp ở miền Nam, lời ông quả ứng nghiệm”.[23]
Sử liệu Đại Nam thực lục (cũng do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn) cũng ghi việc Nguyễn Bỉnh Khiêm “mách nước” cho Nguyễn Hoàng mở về phương Nam: “Đến khoảng năm Thuận Bình đời Lê Trung Tông, do quân công được tiến phong Đoan quận công. Bấy giờ Hữu tướng triều Lê là Trịnh Kiểm (bấy giờ xưng là Lượng quốc công) cầm giữ binh quyền, chuyên chế mọi việc. Tả tướng là Lãng quận công Uông (con trưởng Triệu Tổ) bị Kiểm hãm hại. Kiểm lại thấy chúa công danh ngày càng cao nên rất ghét. Chúa thấy thế, trong lòng áy náy không yên, cùng bàn mưu với Nguyễn Ư Dĩ rồi cáo bệnh, cốt giữ mình kín đáo để họ Trịnh hết ngờ. Chúa nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm (người làng Trung Am, xứ Hải Dương, đỗ Trạng nguyên triều Mạc, làm đến chức Thái bảo về trí sĩ) giỏi nghề thuật số, nên ngầm sai người tới hỏi. Bỉnh Khiêm nhìn núi non bộ trước sân ngâm lớn rằng: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Sứ giả đem câu ấy về thuật lại. Chúa hiểu ý”.[24]
Trong bài viết phóng sự “Bí ẩn trầm hương - Kỳ 1: Vài dòng lịch sử” đăng trên báo Thanh Niên phiên bản điện tử (03/01/2011), tác giả Hoàng Hải Vân trong cuộc đối thoại với ông Nguyễn Phúc Ưng Viên (là cháu nội hoàng tử thứ 12 con vua Minh Mạng, khi đó đang sống và hành nghề bào chế thuốc nam tại TP. Hồ Chí Minh), đã thuật lại nguyên văn như sau: “Ông Ưng Viên nói một trong những thứ mà Chúa Tiên mang vào Nam là những đàn dê, việc này do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đề nghị. Dê là con vật độc đáo, không những có giá trị y thực phục vụ sức khỏe cho dân chúng, mà còn rất tiện ích cho hậu cần quân sự. Dê dễ nuôi, có thể dẫn các đàn dê theo quân, khi có chiến sự chúng ở đâu nằm im ở đó không chạy nhặng xị như trâu bò gà vịt, lại dễ phân phối trong quân, một con dê có thể phục vụ gọn bữa ăn cho một “tiểu đội”. Cha ông của ông Ưng Viên dặn dò con cháu ngoài việc nhớ ơn và thờ phụng tổ tiên mình, còn phải nhớ ơn và thờ phụng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đề xuất với Chúa Nguyễn từ chiến lược chiến thuật, từ chuyện quân cơ, hậu cần cho đến những chuyện cụ thể liên quan đến bảo vệ sức khỏe cho quân dân như món ăn, bài thuốc để làm hành trang Nam tiến. Trong đó có chuyện “dụng trầm”.”
Như Li Tana, một nhà nghiên cứu về lịch sử Việt Nam trung cận đại, đã nhận định: “Một làn sóng di dân vĩ đại của người Việt Nam đã diễn ra vào cuối thế kỷ XVI. Về phương diện lịch sử, nó có thể sánh với cuộc di dân của người Trung Hoa, tuy với tỷ lệ nhỏ hơn, từ phía Bắc tới đồng bằng sông Dương Tử dưới thời Đông Tấn (thế kỷ thứ IV sau CN). Trước thời kỳ này, số người Việt Nam di dân xuống phía Nam không nhiều, có vẻ lác đác. Nhưng bây giờ động cơ thúc đẩy họ di dân trở nên mạnh hơn và mục đích của họ cũng rõ ràng hơn. Nếu Thuận Hóa trước đây xem ra còn là một vùng đất đầy bất trắc, bấp bênh về một số lĩnh vực thì việc Nguyễn Hoàng thiết lập chính quyền ở đây được coi như là việc tái khẳng định quyền của người Việt Nam được định cư ở vùng đất này và vì thế là một khuyến khích lớn đối với việc di dân…”[25][26]
Giai đoạn cai trị của họ Nguyễn ở Đàng Trong kể từ thời Nguyễn Hoàng (1558) cho tới thời Minh Mạng (1820-1841) cũng đưa tới một hệ quả lịch sử mang tính bước ngoặt là nó đã thay đổi căn bản nhận thức của người Việt về tầm quan trọng của chủ quyền biển đảo đối với an ninh quốc phòng cũng như lợi ích kinh tế lâu dài của dân tộc. Nó cho thấy một tầm nhìn chiến lược rõ ràng của những nhà cai trị họ Nguyễn (bao gồm các đời chúa Nguyễn và vua nhà Nguyễn) thông qua những động thái cụ thể thể hiện ý thức xác lập và thực thi chủ quyền lịch sử của người Việt đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước khi có sự tranh chấp chủ quyền từ những thế lực khác.

Tầm nhìn chiến lược về biển Đông


Lịch sử đã không ít lần có cơ hội kiểm chứng những dự báo chiến lược với tầm nhìn địa chính trị vượt trước thời đại nhiều thế kỷ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hai câu thơ “Vạn lý Đông minh quy bả ác / Ức niên Nam cực điện long bình”[27] trong bài “Cự ngao đới sơn” (Bạch Vân am thi tập) ở thế kỷ 16 của ông có thể xem là lời đúc kết hàm súc nhất về tầm quan trọng chiến lược của quan hệ địa chính trị trên biển Đông (còn được gọi bằng tên quốc tế là biển Hoa Nam hay biển Nam Trung Hoa) đối với an ninh quốc phòng (chủ quyền biển đảo) của Việt Nam và cả khu vực Đông Nam Á ngày nay.
Bài thơ “Cự ngao đới sơn”[28] nằm trong tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập được Nguyễn Bỉnh Khiêm viết cách đây gần 500 năm, được GS. Đinh Gia Khánh dịch thơ đã lâu, song gần đây, bài thơ được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt từ khi chính quyền Trung Quốc bộc lộ rõ tham vọng xâm lấn, thuộc địa hoá biển Đông, chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, vốn là một thực tế lịch sử được sử liệu các triều đại Trung Quốc, Việt Nam và nguồn tư liệu phong phú về hàng hải của nhiều quốc gia phương Tây thừa nhận.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai thuộc Trung tâm nghiên cứu Minh triết Việt Nam trong bài viết “Bài thơ Cự Ngao Đới Sơn - một dự báo chiến lược thiên tài của Nguyễn Bỉnh Khiêm” (2013) đã có những phân tích về tầm nhìn đi trước hằng thế kỷ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của một quốc gia (cụ thể ở đây là phải chắc chắn xác lập được chủ quyền của con dân nước Việt đối với biển Đông hay còn gọi là biển Nam Trung Hoa) ở vào giai đoạn trung đại khi mà không mấy ai thực sự quan tâm đến nó, ngay cả với những nhà hoạch định chiến lược vốn nổi tiếng nhìn xa trông rộng của các triều đại phong kiến Trung Hoa trước đây. Tác giả bài viết có những phân tích: “Bài thơ có tuổi đã khoảng 500 năm mà bây giờ càng đọc càng thấy rất kim nhật kim thì, rất thời sự. Ta những tưởng như cụ Trạng Trình đang nói với chính chúng ta hôm nay. Bài thơ nguyên là để nói cái chí của cụ: Chí những phù nguy xin gắng sức (Ngã kim dục triển phù nguy lực)... Câu thơ cuối bài của cụ: Ta nay cũng muốn đem sức phò nguy chính là nói về chúng ta trong những nhiệm vụ làm chủ biển Đông hôm nay vậy.”
Một bài phân tích đáng chú ý khác là bài viết “Tầm nhìn chiến lược về biển đảo của Trạng Trình từ 500 năm trước: Nhân đọc bài thơ Cự ngao đới sơn trong Bạch Vân am thi tập của danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm” (2014) của nhà thơ Nguyễn Đình Minh với những nhận định như sau: “Tác giả đã chỉ ra một trong những điều tất yếu của sự bền vững muôn đời của giang sơn Đại Việt chính là nắm giữ chủ quyền biển Đông. Trước đây khi đề cập đến lãnh thổ, chúng ta thường nói nhiều về sông núi, đất đai; chúng ta có nói về biển nhưng không nhiều, biển không là trọng điểm nhấn mạnh. Nhưng từ về 500 năm trước Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự báo tầm quan trọng của biển đảo dẫn đến sự tồn vong thịnh trị của cả quốc gia; điều ấy cho thấy tầm chiến lược về bảo vệ của ông rất rộng lớn và toàn diện.” Như tác giả bài viết đã kết luận: “Một tầm nhìn chiến lược về biển Đông”.
Khi bài “Cự ngao đới sơn” được viết ở thế kỷ 16, vào thời đó, chủ quyền của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không bị tranh chấp quốc tế, các thế lực khác nhau chủ yếu đặt tham vọng xâm chiếm phần lãnh thổ đất liền mà thôi. Hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ở rất xa đất liền là nơi lánh nạn, trú bão của các đoàn thương thuyền, ngư thuyền mạo hiểm dám ra khơi xa, trong điều kiện phương tiện thuyền bè đương thời, vai trò của kinh tế biển - đảo khi đó chưa được khai thác như bây giờ.
Đặc biệt hai câu kết của bài thơ như một lời tự day dứt, trăn trở, một ý chí quyết tâm của chính tác giả: “Ta nay muốn thi thố sức phù nguy / Lấy lại quan hà, thành xưa của nhà vua” (“Ngã kim dục triển phù nguy lực / Vãn khước quan hà cựu đế thành”). Sức lay động của bài thơ chính là ở đây, là ở những chữ như “ngã” (tôi, ta), “kim” (nay, hiện thời), “dục” (ước muốn, khát khao), “phù” (giúp sức), “nguy” (nguy nan), “vãn” (muộn, chậm, lâu), “khước” (lấy lại, giành lại). Như nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, bài thơ nếu không phải “sấm ký” thì cũng là lời nhắn nhủ, lời hiệu triệu xuất phát từ tận đáy lòng của tác giả, với tính dự báo chiến lược đi trước thời đại hằng thế kỷ, dụng ý dành cho hậu thế nhiều đời sau chứ không phải cho riêng đương thời thế kỷ 16.
Bài thơ là một ví dụ điển hình cho tôn chỉ nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm: thơ ngôn chí, như ông đã bộc bạch trong lời đề tựa của Bạch Vân am thi tập. Xuyên suốt cả bài thơ là một tư tưởng chủ đạo: lo trước cái lo của thiên hạ (khái niệm thiên hạ đặt trong ngữ cảnh cụ thể của bài thơ trên chính là để chỉ quốc gia - dân tộc). Như có nhà nghiên cứu đã nhận định về giá trị tư tưởng của bài thơ: một con người dù ở bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào, thời đại nào, mà có thể bận tâm lo trước mối lo lớn (an ninh quốc phòng, an nguy chủ quyền) của giang sơn xã tắc hằng trăm năm sau (500 năm ở đây nếu xét tuổi đời của bài thơ) thì đáng để hậu thế phải ngàn lần suy ngẫm và kính phục.

Kết tinh Tam giáo Nho-Lão-Phật trong nhân cách và tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nếu Nguyễn Trãi có nhiều lần đọc "Pháp Bảo đàn kinh" (tác giả từng viết "Môn Thiền nhất phái Tào Khê thủy", "Vô thụ phi đài ngữ nhược tâm" – "Du Nam Hoa tự"); Nguyễn Du sau này đã viết "Ngã độc Kim Cương thiên biến kinh" (Tụng đọc "Kinh Kim Cương" hơn nghìn vạn lần) ("Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài") thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài "Độc Phật kinh hữu cảm". Ông đã chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều trong cuộc đời và sáng tác.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho có cái nhìn thời thế rất sâu sắc, độc đáo. Ông học được những kiến thức Nho học từ Lương Đắc Bằng (thuộc phái Tượng số học của Tống Nho). Học trò suy tôn ông là Tuyết Giang Phu Tử– một bậc chân nho.
Tuy nhiên ta vẫn gặp thái độ như không mấy lạc quan trong cuộc đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết những câu tương tự Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi: "Nho quan tự tín đa thân ngộ" (Tự biết "cái mũ nhà nho" đã làm cho tấm thân mắc nhiều lầm lỡ – "Ngụ hứng, 3", "Bạch Vân am thi tập"). Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan với nhà Mạc nhưng ông cũng thấy được sự đổ nát từ bên trong. Ông đã dâng sớ chống tham nhũng. Về trí sĩ ông lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ như là một tín đồ nhà Phật. (Cha ông là Văn Định cũng đã từng lấy đạo hiệu là Cù Xuyên).
Về quê ông tích cực xây chùa, mở trường học. Thường ngày ông cùng với vài nhà sư, một số bạn bè dạo chơi các danh thắng trong đó có núi Yên Tử – trung tâm thiền học Việt Nam. Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi chùa Phổ Minh (ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Trần), ông đã sánh Pháp giới của nhà Phật với quan niệm Trời của Nho gia: "Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại" (Pháp giới sánh ngang tầm rộng lớn của trời) "Du Phổ Minh tự"). Điều này chứng tỏ ông đã nhận thức được tư tưởng "Nhất thế chư pháp vô phi Phật pháp" ở "Kinh Kim Cang" [7, 56]. Đến tiết Trung nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm hy vọng ở lòng yêu thương rộng lớn:"Từ bi ta muốn nhờ công sức, Cứu được bao người chịu khổ oan" ("Trung nguyên tiết xá tội" – Đinh Gia Khánh dịch). Nhà thơ rất cảm hứng khi đọc kinh Phật ("Độc Phật kinh hữu cảm"). Ông tâm đắc triết lý sắc không: "Xuân hoa phong nguyệt không mà sắc" ("Tân quán ngụ hứng, 12"). Đây là tư tưởng "Sắc tức thị không, không tức thị sắc" nổi bật của "Kinh Bát nhã" Tư tưởng Thiềncó lẽ đã gây chấn động trong nhận thức của tác giả: "Vị Phật na tri vô hữu tướng, Đáo thiền phương ngộ bổn lai ky (cơ)" (Chưa Phật nào hay vô hữu tướng, Đạt thiền mới biết bổn lai cơ – "Tân quán ngụ hứng, 18"). Tư tưởng này được tìm thấy ở "Kinh Kim Cang". Khi Phật nói với Tu – bồ - đề: "Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu các ông thấy các pháp (tướng) đều hư vọng, không thật (phi tướng) tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp)" [7, 41]. Tư tưởng này cũng được tiếp nối ở "Pháp Bảo Đàn kinh". Tác giả nói "Bổn lai cơ" trong trường hợp này không ngoài mệnh đề "Bổn lai vô nhất vật" ("Pháp Bảo Đàn kinh"). Khái niệm "cơ" ở cuối câu có thể có nguồn gốc xuất pháp từ Tượng Số học – vốn là sở trường của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính tư tưởng Thiền và kinh Phật đã làm phong phú và nâng cao bản lĩnh Nho học cùng bản sắc trí tuệ trong thơ và đời Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Nguồn gốc tên gọi Việt Nam

Cho đến trước thế kỷ 19 (trước khi nhà Nguyễn được thành lập), trong số các tác gia thời trung đại của Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người có mối liên hệ mật thiết nhất với hai chữ Việt Namthông qua các trước tác của ông hoặc có liên quan trực tiếp với ông. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải (Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam khẳng định điều này. Dù chưa có những bằng chứng chắc chắn để khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam với tư cách là quốc hiệu của dân tộc hay không nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cũng đồng quan điểm với ông Nguyễn Phúc Giác Hải khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam một cách có ý thức nhất để gọi tên của đất nước.
Trong các tác phẩm liên quan đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ít nhất bốn lần danh xưng Việt Nam đã được sử dụng một cách có chủ ý. Điều này cũng góp phần bác bỏ quan điểm cho rằng hai chữ Việt Nam chỉ được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng một cách ngẫu nhiên hay tùy hứng mà thôi. Trong kho lưu trữ của Viện Nghiên cứu Hán-Nôm hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu cổ (chép tay) về Nguyễn Bỉnh Khiêm có sử dụng danh xưng Việt Nam như một quốc hiệu tiền định. Ngay trong phần đầu của tập Sấm ký có tựa đề Trình tiên sinh quốc ngữ, tên gọi Việt Nam đã được nhắc đến: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Danh xưng Việt Nam còn được sử dụng một lần nữa trong bài thơ chữ Hán của ông có tựa đề Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh (Vịnh về non sông đất nước Việt Nam). Ngoài ra còn có hai bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi hai người bạn thân đồng thời là hai Trạng nguyên của triều Mạc, cho thấy tên gọi Việt Nam được dùng như một sự chủ ý. Bài thứ nhất gửi Trạng nguyên, Thư Quốc công Nguyễn Thiến, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: Tiền trình vĩ đại quân tu ký / Thùy thị phương danh trọng Việt Nam (Tiền đề rộng lớn ông nên ghi nhớ, Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được coi trọng ở Việt Nam?). Bài thứ hai gửi Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng viết: Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại / Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam (Cùng ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời, Trước sau soi ánh sáng rực rỡ vào nước Việt Nam). Các bài thơ trên còn được chép trong tập thơ chữ Hán của ông là Bạch Vân am thi tập.

Nguyễn Bỉnh Khiêm với tư cách một nhà hoạt động từ thiện

Trong các tác phẩm thơ văn của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường nêu cao chữ nhàn, hiểu theo nghĩa thông thường là nhàn hạ, nhàn tản. Nhưng như nhiều nhà nghiên cứu đã bàn luận, cách hiểu theo nghĩa trên sẽ khiến người ta dễ hiểu nhầm và đi đến chỗ tầm thường hoá tư tưởng và nhân cách của ông. Thực tế dù thường được sử sách và người đời mô tả như một nhà ẩn sĩ cốt cách thanh tao thoát tục nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao giờ là một người “lánh đời”, bàng quan trước thế sự xung quanh mình (hay thậm chí là “chán đời”, “ghét đời” như không ít nhà nghiên cứu đã gán cho Nguyễn Bỉnh Khiêm). Có lẽ chữ dùng thích hợp hơn cả cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải là “thương đời”, “đau đời” như nhiều nhà nghiên cứu gần đây đã bàn luận. Trần Khuê (Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc, 1991) từng nhận xét: “Trong vài trăm năm qua, người ta truyền tụng và giảng dạy trong nhà trường phong kiến, thực dân quá nhiều thơ nhàn dật của ông. Một số nhà nghiên cứu lại đi thống kê số lượng từ nhàn trong thơ ông rồi yên chí rằng cái gam-chủ trong thơ ông và trong đời ông là thứ gam majeur-nhàn-dật. Họ quên rằng chính ông đã nói rõ: “Tôi lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ phu, lúc về già chỉ thích nhàn dật, lấy cảnh núi non sông nước làm vui… ”. Rõ ràng không thể lấy cái âm hưởng thơ ông lúc chờ thời hay cái âm hưởng hoàng hôn cuối đời để định giá toàn bộ thơ ông và đời ông. Ba mươi năm phò nhà Mạc và hàng trăm bài thơ chữ Hán chứng minh rằng ông sống hào hùng và tung hoành khí phách. Hiển nhiên gam chủ của thơ ông và đời ông là thứ gam majeur-hành động.” Tác giả Viên Linh trong bài viết “Trạng Trình, hồn chữ nghìn thu” (2013) nhận định: “Nhân sinh quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm sờ sờ ra đó, mà cứ bàn về cái nhàn, cái yếm thế, cái chán đời của ông. Tôi nghĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm ưu tư về nhân sinh xã hội đương thời, lo cho cái ăn cái uống của người nghèo bạc phước, phận hèn thân mọn, kiếm không đủ ăn, ông không lòng dạ nào để vịnh hoa và tán tụng các nương tử, những thứ xa xỉ với người dân. Ông không làm thơ vì mình, ông làm thơ cho người. Ông không có thì giờ để buồn chán vì mình, vì không nghĩ về mình thì không buồn về mình, ông buồn cho những kiếp người nhỏ nhoi đói rét xung quanh.” Thực tế, qua những bài văn bia do ông soạn còn lưu lại người đời không chỉ thấy tính chủ động và thành tâm của Trình Quốc Công trong các hoạt động xã hội như vận động xây cầu, xây quán, xây đình chùa mà còn thấy được uy tín và ảnh hưởng sâu rộng của ông trong các tầng lớp nhân dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà chính trị có tư tưởng thân dân rất rõ ràng. Khi phê phán tầng lớp cai trị trong xã hội phong kiến, ông luôn đứng trên lập trường của những con người áo vải bình dân, mặc dù ông không xuất thân từ tầng lớp của họ. Trong lịch sử Việt Nam dưới thời phong kiến, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những danh nhân đi tiên phong trong việc phát động và tham gia tích cực các hoạt động xã hội mang tính từ thiện vì lợi ích chung của cộng đồng, đặc biệt là đối với tầng lớp thường dân. Trong bài văn bia Diên Thọ kiều bi ký (1568), Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những câu như tuyên ngôn cho tư tưởng nhân nghĩa của ông: “...Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành.”
Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy làm quan cho nhà Mạc, và khi cáo quan vẫn giúp nhà Mạc; nhưng với tinh thần nhập thế của một nhà Nho tinh đời, ông không ngần ngại bày kế sách cho cả vua Lê, chúa Trịnh và cả chúa Nguyễn. Nguyễn Bỉnh Khiêm bình thản nhìn sự đời thay đổi, chữ “trung” của ông được cắt nghĩa trong bài Trung Tân quán bi ký như sau: “Quán dựng xong, đề biển là Quán Trung Tân. Có người hỏi: lấy tên quán như vậy ý nghĩa thế nào? Ta trả lời rằng: trung nghĩa là trung chính vậy. Giữ được toàn vẹn tính thiện của mình là trung vậy, không giữ toàn vẹn được tính thiện của mình thì không phải là trung vậy. Tân tức là bến vậy. Biết chỗ dừng đó là đúng bến, không biết chỗ dừng thì là lạc bến vậy. Tên gọi của quán này đại thể là như thế. Như trung với vua, hiếu với cha mẹ, thân ái với anh em, hòa hợp vợ chồng, tín với bạn bè, đó là trung vậy. Đối diện với của cải mà không tham, thấy lợi mà không tranh giành, vui với điều thiện mà bao dung được người, lấy tình thực mà ứng đãi với mọi vật, đó cũng là trung vậy”. Điều này cho thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn ý thức về “tam cương ngũ thường” của Nho giáo, nhưng ông không phải loại nho sĩ cố chấp, ngu trung. Lòng trung của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện là giữ vẹn điều thiện và lấy tình thực mà ứng đãi.

Đánh giá

Là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử chính trị và văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16, cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trải qua gần trọn một thế kỷ nhiều biến chuyển với quy mô tác động chưa từng có trước đó trong lịch sử dân tộc, mà ông vừa là nhân chứng vừa là nhân tố quan trọng tạo nên chúng.
Trạng nguyên, Lại bộ thượng thư Giáp Hải đời Mạc đã viết thơ ca ngợi tài lý học của Nguyễn Bỉnh Khiêm và tên tuổi của ông trong giới Nho gia đương thời cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu sau: "Chu Liêm Khê hậu hữu Y Xuyên, Lý học vu kim hữu chính truyền"; "Danh quán nho khoa lôi chấn địa, Lực phù nhật cốc trụ kình thiên"; "Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt, Cửu lão quang nghi thế thượng tiên" (dịch nghĩa: "Sau Liêm Khê lại có Y Xuyên, Lý học ngày nay bậc chính truyền"; "Long bảng đứng đầu tên sấm dậy, Chống trời cột vững sức cường kiên"; "Bốn triều nghiệp lớn tay anh kiệt, Chín lão dung nghi dáng khách tiên").
Bài văn tế "Môn sinh tế Tuyết Giang phu tử văn" đọc trước linh cữu Nguyễn Bỉnh Khiêm mùa đông năm 1585 do Tiến sĩ Đinh Thì Trung (Đinh Thời Trung) thay mặt các đồng môn soạn ra để tế viếng người thầy của mình. Trong bài văn tế, học trò Đinh Thời Trung đã coi Tuyết Giang phu tử là bậc "muôn chương đọc khắp, học tài chẳng kém Âu, Tô" (Âu Dương Tu và Tô Đông Pha đời Tống), "văn lực không nhường Lý, Đỗ" (Lý Bạch và Đỗ Phủ đời Đường), "một kinh Thái ất thuộc lòng, đốt lửa soi gan Dương Tử" (hiểu rõ lẽ huyền vi của bộ Thái ất như Dương Hùng đời Hán), "suy trước biết sau, học lối Nghiêu Phu môn hộ" (suy trước biết sau chẳng khác nào Thiệu Ung đời Tống) và "một mình Lý học tinh thông, hai nước anh hùng không đối thủ".
Tiến sĩ đời Lê Trung Hưng, Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký soạn năm 1743 có những dòng ca ngợi:...Bởi tiên sinh chẳng những chỉ tinh thâm một môn Lý học, biết rõ dĩ vãng cũng như tương lai, mà sự thực thì trăm đời sau cũng chưa dễ ai hơn được vậy. Ôi! Ở trong thiên hạ, các bậc quân vương, các vị hiền giả, hỏi có thiếu chi, nhưng chỉ có lúc sống thì được phú quý vinh hoa, còn sau khi mất thì những cái đó lại cũng mai một đi với thời gian, hỏi còn ai nhắc nữa? Còn như tiên sinh, nói về thế hệ đã truyền đến 7, 8 đời, gần thì sĩ phu dân thứ ngưỡng vọng như bóng sao Đẩu trên trời, dẫu cách ngàn năm cũng còn tưởng như một buổi sớm, xa thì sứ giả Thanh triều tên Chu Xán, nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng đã có câu “An Nam Lý học hữu Trình Tuyền” tức là công nhận môn Lý học của nước An Nam chỉ có Trình Tuyền là người số một, rồi chép vào sách truyền lại bên Tàu. Như thế, đủ thấy Tiên sinh quả là một người rất mực của nước ta về thời trước vậy.
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp sống thời nhà Tây Sơn, người được Quang Trung Nguyễn Huệ tôn kính như bậc thầy, từ xứ Nghệ ra Bắc, về trấn Hải Dương mong tìm lại những dấu tích gắn với cuộc đời của Tuyết Giang phu tử (Bạch Vân cư sĩ), đã ngậm ngùi viết trong bài thơ Quá Trình Tuyền mục tự (Qua chùa cũ của Trình Tuyền)[29] khi viếng cảnh xưa mà không còn am Bạch Vân, quán Trung Tân bên bến Tuyết Giang, trong đó có những dòng thơ ca ngợi Trình Tuyền hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài áo cơ thâm tạo hóa (mưu cơ thâm kín can dự cả vào công việc của tạo hóa) hay phiến ngữ toàn tam tính(một lời ngắn gọn mà bảo toàn cho cả ba họ).
Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút đã viết: "Lý học như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan đều là tinh anh của non sông đúc lại".
Phan Huy Chú, danh sĩ thời nhà Nguyễn, trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí đã xem Nguyễn Bỉnh Khiêm là "một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở".
Nguyên Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười về thăm khu di tích Trạng Trình đã ghi những hàng chữ lưu niệm: "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà văn, một thầy giáo, một nhà triết học, một nhà dự báo, một danh nhân văn hóa như cây đại thụ bóng trùm cả một thế kỷ XVI. Tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết, nhân cách cao cả cùng với tri thức uyên bác và tài năng sáng tạo đã tạo nên sự nghiệp, uy tín và ảnh hưởng rộng lớn của ông mà đến nay chúng ta rất đỗi tự hào, trân trọng."
Giáo sư Vũ Khiêu có những đánh giá về việc Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quyết định đi theo phò tá triều Mạc mà không phải là nhà Lê: "Vì sao nhà trí thức kiệt xuất này, suốt cuộc đời cho đến lúc gần 50 tuổi vẫn nhất định không chịu đi thi, không chịu cộng tác với nhà Lê, không nhận bất cứ công việc gì của nhà Lê để cuối cùng chọn Mạc Đăng Dung như minh chủ của mình?... Tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm và thái độ của ông do chính ông tự tay viết ra và còn để lại đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc vô căn cứ về ông. Những lời tâm huyết trong thơ của ông khiến người đời sau phải suy nghĩ vì sao ông lại gắn bó với Mạc Đăng Dung và triều Mạc đến thế."
GS Vũ Minh Giang (Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng: "Sự dấn thân muộn màng của một con người tài năng bộc lộ từ khi còn bé chứng tỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm không thuộc người lãnh đạm với thời cuộc, mà trái lại ông là người có lý tưởng cao hơn nhiều so với chí hướng thi đỗ làm quan, vinh thân phì gia thường thấy ở phần lớn nho sỹ. Ông chỉ tham dự vào chính trường khi cảm thấy thời cuộc cần đến mình, khi hoàn cảnh chính trị có thể tạo điều kiện cho ông đem tài trí ra giúp đời, phụng sự đất nước".
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài tham luận "Bước đầu suy nghĩ về văn học Mạc" đã đánh giá về Nguyễn Bỉnh Khiêm: "...Ông là một nhà văn hóa, và riêng ở bình diện văn hóa mà nói thì tầm vóc không thua kém Nguyễn Trãi là mấy, phần nào đấy còn khai phá vào một vài lĩnh vực sâu hơn. Bởi ông chuyên về dịch học. Chính ông xây dựng nền tảng của tư tưởng biện chứng trong Kinh Dịch, góp vào lịch sử tư tưởng Việt Nam một số kiến giải mới mẻ. Là một nhà dịch học nên ông nổi tiếng là bậc tiên tri, nhưng ông cũng lại là một nhà thơ lớn. Ông viết đến một nghìn bài thơ chữ Hán. Đây là con số mà từ thời đại Mạc trở về trước hoàn toàn chưa có..."
Giáo sư Nguyễn Tài Thư trong tác phẩm Nghiên cứu Kinh Dịch (Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2002) đã có những đúc kết về di sản Lý học (Dịch học) của Trạng Trình: "Chiêm nghiệm những nguyên lý của Chu Dịch, đưa nó vào xử thế mà ông nổi tiếng là người nhìn xa trông rộng. Những sự kiện Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán nhà Lê trung hưng, chỉ cho nhà Mạc lên Cao Bằng, khuyên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Hóa Châu đã được lịch sử chứng minh là tài tình, thì ở đây không có gì là lời nói gặp may, mà là những dự đoán có cơ sở thực tế vững vàng, đáng được nhân dân tôn ông làm nhà tiên tri. Quả thật, học Dịch và hiểu Dịch như ông xưa nay không phải là nhiều... Ông đã vượt được các nhà Nho khác chính là ở chỗ ông học Dịch nhưng không bị lệ thuộc hoàn toàn vào Dịch".
Nhà nghiên cứu Trần Khuê trong tham luận hội thảo khoa học “Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc” (1991) đã có những đúc kết tinh tế về hành trạng cuộc đời cũng như tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân từ cửa Khổng, ông đi ngang qua sân nhà Lão tử, rồi dừng lại trước cửa Thiền, suy ngẫm về giáo lý và đạo lý, cuối cùng ông đã trở về với đồng ruộng và lũy tre xanh của làng quê Việt Nam, hay nói khác đi, ông đã trở về với dân tộc. Suốt đời ông, ông đã sống như mình cần sống và đã hành động như mình cần hành động.”

Hình tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tôn giáo


Cao Đài Tam Thánh ký hòa ước. Từ trái sang phải: Tôn Dật TiênVictor Hugo và Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh nhân văn hóa duy nhất trong lịch sử Việt Nam cho tới nay được công nhận là một vị thánh của một tôn giáo chính thức. Ông được suy tôn là Thanh Sơn Đạo sĩ (còn được gọi là Thanh Sơn Chơn nhơn), là một trong ba vị thánh linh thiêng của Đạo Cao Đài. Bức tranh Tam Thánh ký hòa ước được lưu thờ tại Tòa Thánh Tây Ninh có vẽ chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh Victor Hugo và Tôn Trung Sơn.

Giai thoại

Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi.
Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và tình cờ hát:
"Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung".
Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay:
"Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung".
Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi).
Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát
"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng".
Ông Định hoảng sợ vì nếu triều đình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên sửa lại:
"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng".
Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.
Tương truyền sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí vì họ Phùng không có chí làm vua.
Mãi sau này bà Nhữ tình cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối vì cho rằng người này có số làm vua, còn tuổi mình đã cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung, vị vua khai triều của nhà Mạc.

Ghi nhận


Không gian phía trước tượng đài Trạng Trình trong quần thể Khu di tích và đền thờ Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêmxã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

Một góc vườn tượng trong quần thể Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Năm 1985, tại Thành phố Hải Phòng, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng phối hợp với Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học về Danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông. Tại hội thảo này, các nhà khoa học đã đánh giá, khẳng định về tầm vóc của Trạng Trình và ghi nhận những đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm với thời đại ông sống cũng như với lịch sử dân tộc.
Năm 1991, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Sở Văn hoá Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức cuộc Hội thảo khoa học kỷ niệm 500 năm ngày sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm với chủ đề "Nguyễn Bỉnh Khiêm trong sự phát triển văn hoá dân tộc".
Cũng trong năm 1991, khu di tích gắn với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Cuối năm 2000, nhân kỷ niệm 415 năm ngày mất của Trạng Trình, Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng cho khởi công xây dựng dự án nâng cấp tạo dựng cả một vùng rộng lớn thành quần thể "Khu di tích danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm" tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo với nhiều hạng mục công trình: Đền thờNguyễn Bỉnh Khiêm với ba gian tiền đường, hai gian hậu cung, phía trước có hai hồ nước tượng trưng cho trời và đất, bức hoành phi trong đền ghi 4 chữ "An Nam Lý Học"; Khu vực hồ Thái Nhâm phía trước đền thờ, trên khoảng đất nhỏ giữa hồ có cầu bắc qua còn lưu giữ tấm bia đá làm năm Vĩnh Hựu thời Lê Trung Hưng (1736) ghi lại việc làm đền thờ Trạng và tên những người đã đóng góp xây dựng đền; Ngôi nhà ba gian lợp cói dựng phía sau đền, mô phỏng am Bạch Vân, nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi từ quan về dạy học; Quần thể vườn tượng, với kích thước tương đương người thật, diễn tả lại cuộc đời, cảnh dạy học khi xưa của Trạng Trình, tạo nên một khung cảnh gần gũi và sống động với du khách; Phần mộ cụ Nguyễn Văn Định, cha của Trạng Trình (riêng phần mộ của Trạng Trình đến nay vẫn chưa có thông tin chính thức về địa điểm cụ thể); Nhà trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Quán Trung Tân, nơi lưu giữ quan niệm mới về chữ "Trung" hướng lòng theo "Chí Trung Chí Thiện"; Khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng đá granit cao 5,7m, nặng 8,5 tấn cùng hai bức phù điêu diễn tả lại cuộc đời sự nghiệp của Trạng Trình và lịch sử của địa phương, phía trước tượng đài là hồ bán nguyệt rộng 1.000m²; Chùa Song Mai, Nhà thờ tổ là nơi thờ bà Minh Nguyệt, người vợ thứ ba của Trạng Trình đã từng tu hành tại đây; Tháp Bút Kình Thiên với ngụ ý ca ngợi công đức Trạng Trình như cột trụ chống trời. Khu di tích được xây dựng khang trang đã trở thành điểm du lịchvăn hóa lớn của TP. Hải Phòng.
Nhân kỷ niệm ngày mất của ông, giáo sư Vũ Khiêu viết Chúc văn tưởng niệm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, sau được in trong tập “Danh nhân văn hoá Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm” do Nhà xuất bản Hải Phòng ấn hành năm 2001 có đoạn: "Ngoài vòng danh lợi: đôi làn mây trắng bay cao Trong cuộc bể dâu: một tấm lòng son chẳng đổi"[30]
Trên quê ngoại ông ở thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được thờ cùng với mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan tại Từ đường họ Nhữ - Nguyễn trong quần thể di tích có lăng mộ của vợ chồng Tiến sĩ Thượng thư Nhữ Văn Lan cùng con gái Nhữ Thị Thục (mẹ của Trạng Trình).
Văn miếu Mao Điền ở Hải Dương và Văn miếu Trấn Biên ở Đồng Nai đều có tượng và bài vị thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đình làng Thanh Am (tên cũ là Hoa Am) thuộc phường Thượng Thanh, quận Long Biên, Hà Nội ngày nay, được xây dựng từ cuối thế kỷ XVI là nơi thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm như một vị Thành hoàng của làng. Tên gọi cũ là Hoa Am cũng do Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc sinh thời đặt cho làng trong thời gian ông làm quan dưới triều Mạc. Khi về già, ông vẫn lui tới đây khuyên dân làm nghề nông nuôi tằm ươm tơ dệt lụa. Khi ông mất, nhân dân ghi nhớ công lao, tôn sùng ông là một trong các vị Thành Hoàng của làng. Cụm đình, chùa làng Thanh Am có bề dày lịch sử với những sắc phong, thần phả, sấm ký và nhiều tư liệu còn giữ.
Đạo Cao Đài đã phong thánh cho Nguyễn Bỉnh Khiêm và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn Chơn nhơn, là một trong ba vị thánh linh thiêng của Đạo. Bức tranh Tam Thánh ký hòa ước lưu thờ tại Tòa Thánh Tây Ninh có vẽ chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh Victor Hugo và Tôn Trung Sơn.
Ngày 7 tháng 1 năm 2016 (tức ngày 28 tháng 11 năm Ất Mùi), tại Khu di tích và đền thờ Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, UBND Thành phố Hải Phòng đã trọng thể kỷ niệm 430 năm ngày mất của ông và đón nhận bằng xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thay mặt Chính phủ trao tặng. Buổi lễ đã được truyền hình trực tiếp trên sóng VTV2 của Đài truyền hình Việt Nam. Đây là di tích quốc gia đặc biệt thứ hai của Hải Phòng sau danh lam thắng cảnh quần đảo Cát Bà được xếp hạng vào năm 2013.
Tên của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được lấy đặt cho nhiều con đường, trường học trên khắp đất nước. Tại Hải Phòng có một con phố mang tên Trạng Trình và con đường mang tên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tại Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), đường Nguyễn Bỉnh Khiêm thuộc phường Bến Nghé, quận 1 (được đổi từ tên đường Angier vào năm 1955) là một trong những con đường lưu giữ nhiều giá trị lịch sử-văn hoá-kiến trúc bậc nhất của thành phố, bao gồm những công trình tiêu biểu như Thảo Cầm Viên Sài Gòn, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, Đền thờ các vua Hùng và Trường THPT công lập Trưng Vương.

Chú thích

  1. ^ Có tài liệu cho rằng Trạng Trình đổi từ tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt thành Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ông chuẩn bị đi thi (1535). Nghĩa của hai chữ Bỉnh Khiêm được hiểu là "giữ trọn tính khiêm nhường".
  2. ^ Từ "cư sĩ", lần đầu tiên được dùng trong văn chương Phật giáo trong bộ kinh Đại thừa quan trọng "Duy-ma-cật" với nghĩa là người Phật tử tri thức tại gia, tu hạnh Bồ-tát cứu nhân độ thế. Nói cách khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm tự xem mình là Bồ-tát với lý tưởng cứu nhân độ thế, không màng danh lợi, chứ không phải là người chủ trương sống lánh đời hay bàng quan đối với thế sự.
  3. ^ Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đậu Trạng nguyên khoa Ất Mùi, niên hiệu Đại Chính thứ 6 (1535) tại Văn miếu Mao Điền thuộc trấn Hải Dương xưa. Ngày nay Văn miếu Mao Điền (được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia) là một trong những địa điểm du lịch văn hóa nổi tiếng của tỉnh Hải Dương.
  4. ^ Không ít tư liệu về Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng ông chỉ được vua Mạc truy tặng tước Trình Quốc Công sau khi ông qua đời. Nhưng những tấm văn bia mới được phát hiện tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình, tiếp giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng (cần lưu ý rằng vào thời Mạc, cả 2 huyện Quỳnh Phụ thuộc tỉnh Thái Bình và Vĩnh Bảo thuộc TP. Hải Phòng ngày nay đều nằm trong địa giới hành chính của huyện Vĩnh Lại thuộc phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương), vào năm 2000 do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn đã bác bỏ những điều nêu trên (tham khảo bài viết “Hai tấm bia Trạng Trình soạn mới được phát hiện ở Thái Bình” của Nguyễn Hữu Tưởng trong Tạp chí Hán Nôm số 6[55], 2002). Sự thực thì ông đã được thăng tước Trình Quốc Công trước thời điểm năm 1568 (thời vua Mạc Mậu Hợp), tức là sớm hơn 17 năm trước khi ông qua đời (1585).
    Một số nghiên cứu cho rằng làng Trung Am (nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ra đời và sống trong gần 90 năm) từ xa xưa có tên là Trình Tuyền, sau đó đổi thành Cổ Am, cuối cùng là Trung Am. Theo cách hiểu này, khi làm quan cho nhà Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền hầu, rồi Trình Quốc công, tức ông quan được phong tước hầu, tước công ở làng Trình Tuyền (vì thế sứ thần nhà Thanh là Chu Xán Nhiên có thơ khen tặng “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”, nghĩa là “Người am hiểu dịch lý học ở An Nam có ông quê ở làng Trình Tuyền”) chứ không phải là “người hiểu rõ suối nguồn dịch lý học của anh em họ Trình (tức Trình Di và Trình Hạo) đời Bắc Tống” như lâu nay không ít nhà nghiên cứu đã giải thích. Một đặc điểm thời xưa là khi phong tước cho các công thần, các triều đại phong kiến thường lấy tên hiệu, tên tự, tên đất (quê quán) của người có công để đặt.
  5. ^ Vào đầu thế kỷ XVI, khi nhà Lê sơ bắt đầu đi vào giai đoạn suy thoái, trong dân gian xuất hiện câu sấm "Phương Đông có khí sắc thiên tử" (phương Đông ở đây là muốn ám chỉ xứ Đông, tức là trấn Hải Dương vào thời Lê) nhưng không biết câu sấm đó ứng nghiệm vào ai. Nhà Lê sơ lo sợ không biết phải làm thế nào nên đã cho thuật sĩ về Đồ Sơn trấn yểm. Sau này người đã phế bỏ ngôi vị của nhà Lê sơ để lập ra nhà Mạc là Mạc Đăng Dungchính là người huyện Nghi Dương thuộc trấn Hải Dương (nay là huyện Kiến Thụy của thành phố Hải Phòng). Bởi vậy xét về mặt quê quán, Mạc Đăng Dung và Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể coi là đồng hương vì cả hai đều là người xứ Đông hay trấn Hải Dương (nay thuộc địa phận Hải Phòng).
  6. ^ Về hành trạng của bà Nhữ Thị Thục, các tài liệu nghiên cứu đến nay vẫn chưa thống nhất về tính xác thực của những giai thoại trong dân gian kể rằng bà chê ông Nguyễn Văn Định không biết cách dạy con nên đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ (bởi với biệt tài lý số của mình, bà Nhữ Thị Thục đã tiên đoán nhà Lê sơ 40 năm sau thời thịnh trị của Lê Thánh Tông sẽ đi vào suy tàn nên bà muốn dạy Văn Đạt học cách làm vua để có thể giành được ngôi vị đế vương về sau, điều này trái với ý muốn của ông Nguyễn Văn Định). Nhiều nguồn sử liệu trước đây khẳng định rằng sau khi bỏ về nhà cha mẹ đẻ, bà đã vượt qua lễ giáo phong kiến mà đi bước nữa để rồi sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (người làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây cũ). Nhưng nhiều nghiên cứu hiện nay cho rằng điều này rất khó xảy ra bởi bà Nhữ Thị Thục sinh ra Văn Đạt khi đã luống tuổi (ngoài 20 tuổi) trong khi Phùng Khắc Khoan sinh sau Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nguyễn Văn Đạt) tới 37 năm. Một điều nữa là bà Nhữ Thị Thục sau khi qua đời lại được an táng bên nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ mà không phải tại làng Trung Am bên nhà chồng như truyền thống có từ xưa. Hiện nay, phần mộ của vợ chồng Tiến sĩ Nhữ Văn Lan và con gái Nhữ Thị Thục đã được tôn tạo, đưa vào trong quy hoạch của khu di tích bên họ ngoại Trạng Trình.
  7. ^ Nhiều tài liệu cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn tham chính sau khi đã từ quan năm 1542 (sau 8 năm đầu làm quan dưới triều Mạc), trở về sống và mở trường dạy học ở quê nhà cho đến khi qua đời. Sự thật không hoàn toàn như vậy. Khoảng thời gian gần hai chục năm sau đó, ông chủ yếu làm quan tại gia, đóng vai trò cố vấn từ xa cho vua và chỉ về triều khi cần bàn việc chính sự hay theo xa giá nhà vua đi dẹp loạn. Trong thơ của ông cũng như của người bạn vong niên là Tô Khê hầu Giáp Hải nhiều lần đã khẳng định điều này. Ông chỉ thực sự treo ấn từ quan, về nghỉ ở quê nhà khi đã ngoài 73 tuổi dưới thời trị vì của vua Mạc Mậu Hợp.
    Xung quanh những bàn luận trái chiều của các nhà nghiên cứu về vai trò thực sự cũng như những đóng góp cụ thể của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong triều Mạc, Trần Khuê (Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc, 1991) nhận định:
    Khi nhà Mạc giành ngôi nhà Lê thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ở tuổi 37 (1491-1527). Và khi vua cha Mạc Thái Tổ nhường ngôi cho vua con là Mạc Thái Tông thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa tròn 40 tuổi, nghĩa là đúng vào cái tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”. Ngoài những đợt nghỉ ngắn hạn, ông chỉ chính thức “huyền xa” (về trí sĩ) vào năm đã ở tuổi 73: “Điểm kiểm hành niên thất thập tam / Huyền xa sai vãn đã ưng tàm” (Đếm tuổi mình đã bảy mươi ba / Treo xe hơi muộn, cũng nên thẹn). Ông còn ân hận vì sức yếu rồi nên không giúp rập nhà vua được nữa: “Trì khu tự hứa ta vô lực / Vinh tiện hà cầu khởi thị tham” (Vốn tự thẹn đua bay với người, than ôi không đủ sức / Không cầu sang hèn đâu phải là tham) [Về hưu gửi quan Thượng thư bộ Lại Kế Khê bá Giáp Hải]. Trong khoảng 30 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hết lòng phò 4 triều vua Mạc – hành trạng của ông, thơ văn của ông và các bạn đồng liêu của ông đã minh định điều đó. Và phải lý giải sao cho thỏa đáng khi ông được phong tặng rất nhanh những chức tước quan trọng dưới triều các vua Mạc?
    Lý giải sao cho thấu tình đạt lý về hơn hai chục bài thơ nói về việc hộ giá nhà vua đi đánh giặc và không phải chỉ đi một lần? Chỉ cần đọc kỹ 4 bài viết về chuyện “hộ giá…” và sáu bài “Qua sông.. Hữu” cũng đủ hiểu cảm hứng và lòng chân thực của ông. Và tôi nhất trí hoàn toàn với Ngô Đăng Lợi rằng không thể coi lời thơ khen tặng của Lại bộ thượng thư Giáp Hải đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là “lời nói vu vơ không căn cứ”: “Danh quán Nho gia lôi phấn địa / Lực phù nhật cốc trụ kình thiên / Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt / Cửu lão quang nghi thế thượng tiên.” (Tiếng tăm ông lừng lẫy làng nho như sấm rền mặt đất / Năng lực của ông phò vua như cột chống đỡ trời / Huân nghiệp trải bốn triều, ông là tài năng kiệt xuất giữa cõi người / Dung nghi rực rỡ của tuổi chín mươi, ông khác gì vị tiên nơi trần thế.).
    Rõ ràng tuổi tác, hành trạng và tác phẩm của ông đã chứng minh rằng ông đi thi ở tuổi 44 và làm quan với nhà Mạc cho đến tận năm 73 là hoàn toàn tự nguyện, chẳng có chứng cứ nào nói lên rằng ông miễn cưỡng hay bị bó buộc.
    Theo Đinh Gia Khánh thì Nguyễn Bỉnh Khiêm “bị vua Mạc ép đi theo quân. Có lẽ vì vua Mạc muốn dùng uy vọng của ông để tăng thanh thế cho mình, chứ chưa có chứng cớ gì về tài thao lược điều binh khiển tướng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cả” (tr. 15). Ông cũng nhấn mạnh cái ý “cũng vì các vua Mạc kế tiếp nhau tìm cách sử dụng Nguyễn Bỉnh Khiêm cho nên lại có cớ để luôn luôn thăng chức cho ông (…). Vua Mạc trọng thị Nguyễn Bỉnh Khiêm thì một phần có thể thực lòng (tôi gạch dưới – T.K) mà cũng vì muốn lợi dụng uy vọng của ông (tôi gạch dưới – T.K)”.
    Cái chuyện “ép đi theo quân” rõ ràng không hề có đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Còn chuyện “lợi dụng uy vọng của ông” cũng cần được xem lại. Nhưng cái chuyện “có lẽ”, “có thể là” mà cứ được nhấn đi nhấn lại dưới những ngòi bút có uy vọng như ngòi bút của ông Đinh Gia Khánh quả thật là điều khá gay cấn cho những lớp đến sau.
    Theo những chứng cứ mà tôi thu lượm được trong thư tịch xưa trên những văn bản đáng tin cậy thì không hề có chuyện vua Mạc mang theo đi trong hàng quân của mình một ông già đầy uy vọng nhưng lại thiếu tài thao lược. Trước hết phải nói rõ rằng nhà Mạc không hề thiếu những người có tài thao lược, chuyện này tôi sẽ đưa đủ chứng cứ trong phần bàn về nhà Mạc. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thiếu tài thao lược hoặc không lập nên công trạng gì đáng kể hẳn vua Mạc không cần phong tặng ông những chức tước quan trọng như thế (chức Lại bộ Thượng thư, Thái phó, tước Trình quốc công). Cũng không nên quá tin vào lối nói khiêm nhượng của ông mà tưởng thật rằng ông thiếu tài cán hoặc sự đóng góp mưu kế của ông là không đáng kể...
    GS. Vũ Khiêu cũng có những quan điểm tương đồng với Trần Khuê:
    Vì sao nhà trí thức kiệt xuất này, suốt cuộc đời cho đến lúc gần 50 tuổi vẫn nhất định không chịu đi thi, không chịu cộng tác với nhà Lê, không nhận bất cứ công việc gì của nhà Lê để cuối cùng chọn Mạc Đăng Dung như minh chủ của mình? Theo những người xuyên tạc nói thì Nguyễn Bỉnh Khiêm bất đắc dĩ phải theo nhà Mạc mà thôi. Thực ra trước những thành công và tiến bộ nhất định của nhà Mạc Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thực sự vui mừng, tin tưởng ở một xã hội thanh bình và thịnh trị do triều đại mới đem lại: “Mừng thấy thời vần đời mở trị / Thái bình thiên tử, thái bình dân”. Ông quyết định ra phục vụ nhà Mạc, coi đó là sự lựa chọn đúng đắn của bậc trượng phu và người quân tử: “Quân tử mới hay nơi xuất xứ / Trượng phu cũng có chí anh hùng”. Họ còn nói: ông đã nửa chừng bỏ triều Mạc để về quê. Không phải như thế! Ngược lại, ông đã suốt đời đem hết tâm lực để phục vụ triều Mạc trên mọi lĩnh vực văn học, chính trị, quân sự coi như nghĩa vụ lớn lao của mình: “Ba đời chúa được phúc tình cờ / Ơn nặng chưa từng báo tóc tơ”. Cho đến lúc ông 70 tuổi dù được về nghỉ ở quán Trung Tân, ông vẫn bày tỏ thái độ chung thuỷ với các vua Mạc vẫn nhiều lúc về thăm vua, nhiều lúc theo vua ra mặt trận: “Xem lại tuổi đời ngoài bảy chục / Chỉ vì già yếu há quên vua”. Tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm và thái độ của ông do chính ông tự tay viết ra và còn để lại đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc vô căn cứ về ông. Những lời tâm huyết trong thơ của ông khiến người đời sau phải suy nghĩ vì sao ông lại gắn bó với Mạc Đăng Dung và triều Mạc đến thế.
  8. ^ Nhiều tài liệu văn học sử cho rằng Nguyễn Dữ (tác giả của Truyền kỳ mạn lục) cũng từng là học trò của ông và được ông phụ chính tác phẩm để Truyền kỳ mạn lục trở thành một áng thiên cổ kỳ bút như Vũ Khâm Lân đã ca ngợi. Tuy nhiên cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Dữ chưa từng là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà chỉ là một người sống cùng thời với ông. Vấn đề này đến nay vẫn chưa có quan điểm hoàn toàn thống nhất của giới nghiên cứu văn học cũng như lịch sử.
  9. ^ Một số nhà nghiên cứu cho rằng nguyên văn câu nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm với sứ giả của Nguyễn Hoàng (được chép lại trong bài Phả ký của Vũ Khâm Lân) phải là "Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân" (Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được) chứ không phải là "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (Một dải Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời) như phần lớn tài liệu đã dẫn. Nguyên nhân của sự sai khác này được lý giải là do các sử gia nhà Nguyễn sau này đã sửa đổi hai chữ "khả dĩ" thành "vạn đại", với hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp của triều đại tới muôn đời.
  10. ^ Dịch nghĩa: Biển Đông vạn dặm giăng tay giữ / Đất Việt muôn năm vững trị bình
  11. ^ Dịch nghĩa: Bốn trăm năm trước, cuối cùng trở lại như ban đầu / Mười ba đời sau, khác biệt mà cùng chung. Hai câu này được cho là lời tiên tri của Trạng Trình về sự phục hồi (vấn tổ tầm tông) lại tên họ của con cháu hậu duệ họ Mạc sau khi phải thay tên đổi họ lúc nhà Mạc bị thất thủ (1592), nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh.
  12. ^ Dịch nghĩa: Đất nước Hồng Lam này sau ta 500 năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh lâu dài
  13. ^ Dịch nghĩa: Từ xưa đến nay, nước lấy dân làm gốc / Được nước nên biết đó là do ở chỗ được lòng dân
  14. ^ Dịch nghĩa: Từ xưa đến nay chỉ có người nhân nghĩa là không ai địch nổi / Việc gì phải khư khư ôm mộng chiến tranh giết chóc
  15. ^ Dịch nghĩa: Tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi / Cùng, thông, đắc, táng, ta có lo cho riêng mình đâu.
  16. ^ Dịch nghĩa: Cái mũ nhà Nho tự biết đã làm cho tấm thân mắc nhiều lầm lỡ / Ăn bằng vạc, có ai là kẻ vì nước mưu toan
  17. ^ Dịch nghĩa: Rốt cục (ai) muốn tìm cái chỗ vui của ta / Thì cần biết rằng ta được vui sau thiên hạ vì biết lo trước thiên hạ
  18. ^ Dịch nghĩa: Nỗi lòng lo đời biết nói cùng ai / Chỉ có tiếng chuông chùa trên núi vắng lúc nửa đêm san sẻ
  19. ^ Dịch nghĩa: Trời sinh ra dân chúng / No ấm là điều ai nấy đều mong muốn
  20. ^ Dịch nghĩa: Cao khiết ai là kẻ sĩ trong thiên hạ / An nhàn ta là tiên trong đời
  21. ^ “Giải mã những tiên tri kinh ngạc của Trạng Trình”. Báo điện tử VTC News. Truy cập 27 tháng 9 năm 2015.
  22. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí (bản dịch), tập 2, tr. 1274
  23. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí (bản dịch), tập 2, sđd
  24. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục (bản dịch), tập 3, tr.29, Nhà xuất bản. Giáo dục, 2001
  25. ^ Trong “Xứ Đàng Trong”, Li Tana, tr.37, 38.
  26. ^ Trong bài viết “Một Việt Nam khác? Vương quốc của họ Nguyễn ở thế kỷ 17 và 18” (“An Alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the 17th and 18th Century”, Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 29, No. 1, 1998), Li Tana phân tích:
    Vương quốc của họ Nguyễn thế kỷ 17 và 18, kiểm soát khu vực mà sau này người phương Tây biết đến với cái tên Cochinchina, có gốc rễ tại khu vực miền Trung của Việt Nam thời hiện đại. Biên niên sử nhà Nguyễn mô tả Nguyễn Hoàng, giữ chức trấn thủ Thuận Hoá và Quảng Nam, nơi khi đó đánh dấu đường biên giới phía nam của Đại Việt, là người sáng lập vương quốc phía nam. Chiến tranh nổ ra năm 1627giữa nhà Nguyễn ở phương nam và chính quyền Lê-Trịnh vốn kiểm soát khu vực từ Nghệ An đến đồng bằng sông Hồng. Bằng việc tạo dựng một nhà nước mới, nhà Nguyễn đặt mình vào vị trí phản loạn đi kèm với nguy hiểm vì họ yếu hơn phe chúa Trịnh ở gần như mọi mặt. Miền Bắc có những định chế vững chắc từ lâu, lãnh thổ rộng gấp ba, bốn lần so với nhà Nguyễn, và sức mạnh quân sự của họ cũng lớn hơn. Ngoài ra, phe họ Trịnh được thành lập ở một khu vực mà dân cư là người Việt và nghĩ là họ cai trị người của dân tộc mình, trong khi chính quyền nhà Nguyễn cai trị vùng đất từng thuộc Champa, một vương quốc Ấn hoá có những truyền thống khác hẳn so với người Việt. Tuy nhiên, chính quyền nhà Nguyễn đã không chỉ tồn tại, đánh bại bảy chiến dịch của họ Trịnh, mà còn lần hồi đẩy biên giới vào sâu phía nam, kiểm soát ba phần năm phần lãnh thổ tạo thành nước Việt Nam ngày nay chỉ trong khoảng thời gian 200 năm. Vì sao những thế lực hoạt động trong môi trường mới lại tồn tại và thành đạt, trong khi thế lực vẫn ở lại trong môi trường quen thuộc thì chùn bước?
    ...Từ thế kỷ 17, đồng bằng sông Hồng không còn là trung tâm duy nhất của văn minh Việt: một trung tâm mới – Phú Xuân (Huế) – đã thách thức Thăng Long (Hà Nội), và một khu kinh tế xã hội quan trọng thứ hai – Thuận Quảng – hình thành cách xa khỏi đồng bằng sông Hồng. Đây không đơn thuần là một sự mở rộng về nam của xã hội và nền kinh tế cũ của người Việt, mà đúng hơn, một xã hội mới đã phát triển, với một nền tảng văn hoá khác và những hoàn cảnh kinh tế, chính trị khác. Là cư dân của một khu vực mà chính quyền thù địch Lê-Trịnh chưa bao giờ chính thức từ bỏ quyền kiểm soát, người ở phía nam Việt Nam mô tả lãnh thổ của họ là “Đàng Trong” và gọi khu đồng bằng sông Hồng phía bắc là “Đàng Ngoài”. Cách dùng từ như vậy thể hiện rõ rệt là họ xem phương nam như một thực thể riêng, và sự trỗi dậy của những khác biệt giữa hai khu vực tương đương với hai cách làm người Việt khác nhau.
    Sự hình thành Đàng Trong là một sự thay đổi sâu sắc và căn bản trong lịch sử Việt Nam, mà tầm quan trọng có thể so sánh với việc Việt Nam giành lại độc lập từ Trung Quốc thế kỷ 10. Thoạt nhìn, những sự kiện này có vẻ, giống như cách chúng thường được mô tả trong sách sử chính thức hồi thế kỷ 19, không hơn gì mấy một câu chuyện về sự sống còn và cuối cùng thành công của một gia đình đã thất thế ở Thăng Long. Thế nhưng, những thành công của nhà Nguyễn đã tạo nên một xã hội mới và một văn hoá mới. Các yếu tố kinh tế đóng vai trò quyết định: trong vài thập niên ngắn, dù là một khu vực mới mở, ít dân hơn, và vào giai đoạn này còn nhỏ hơn đồng bằng sông Hồng, nhưng Đàng Trong trở nên giàu có và mạnh hơn vùng đất phương bắc (mặc dù không đủ mạnh để lật đổ họ Trịnh). Cả điều kiện kinh tế của người dân và sự cởi mở có thể so sánh của xã hội tại Đàng Trong tương phản một cách có lợi so với cái gọi là “chính quyền trung ương” của vương quốc nhà Lê. Những lợi thế này lập thành nền tảng của quá trình nam tiến mà cuối cùng đưa họ đến đồng bằng sông Mêkông. Đàng Trong trở thành đầu tàu thay đổi mang tính lịch sử, và kéo trọng tâm quốc gia – dù là được nhìn theo nghĩa chính trị, kinh tế hay thậm chí văn hoá – về hướng nam từ thế kỷ 17 cho đến khi người Pháp áp đặt sự cai trị.
  27. ^ Dịch thơ: “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ / Đất Việt muôn năm vững trị bình”
  28. ^ Cự ngao đới sơn (phiên âm): Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh / Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh / Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực / Trước cước trào vô quyển địa thanh / Vạn lý Đông minh quy bả ác / Ức niên Nam cực điện long bình / Ngã kim dục triển phù nguy lực / Vãn khước quan hà cựu đế thành.
    Con ngao lớn đội núi (dịch nghĩa): Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy / Con ngao lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra / Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời / Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội tiếng vào đất / Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong bàn tay / Muôn năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình / Ta nay muốn thi thố sức phù nguy / Lấy lại quan hà, thành xưa của nhà vua.
  29. ^ Quá Trình Tuyền mục tự (phiên âm chữ Hán): Tích văn Mạc Trình Tuyền / Kim đáo Tuyết kim tân / Cổ quán dư thương kệ / Di am chỉ Bạch vân. / Bắc giang tăng Vạn Hạnh, / Nam độ Tấn Tham Quân / Thao thao trục lưu Mác / Chân tri hữu kỷ nhân / Viêm vận tao dương cửu / Gian hùng xuất chấn phương / Tiêu sơn tăng dĩ hỉ / Bạch Vân bất khả đương. / Áo cơ thâm tạo hóa / Nhàn khí miểu công vương. / Phiến ngữ toàn tam tính / Hồn hỗn vị dị lương. / Am không bi diệc diệt / Lưu lạc tuyết kim giang.
    Qua chùa cũ của Trình Tuyền (dịch nghĩa): Xưa nghe tiếng Trạng Trình đời nhà Mạc / Nay đến bên sông Tuyết Kim / Quán cổ còn lại tấm bia đá phủ rêu xanh / Dấu vết am chỉ còn mây trắng. / Bắc Giang có Sư Vạn Hạnh / Bến đò Nam có Tấn Tham Quân / Nước cuồn cuộn chảy xuống cuối dòng / Có mấy ai được là “chân tri” / Vận nước vùng nóng nực này gặp lúc rủi ro / Ở phương Đông xuất hiện kẻ gian hùng, / Nhà sư ở chùa Tiêu Sơn không còn nữa / Bạch Vân cũng khó đảm đương nỗi. / Mưu cơ sâu kín tham dự vào việc của tạo hóa / Phong khí nhàn nhã xa cách các bậc công vương / Chỉ câu nói ngắn mà bảo toàn được ba họ / Rất hồn nhiên mà không dễ suy đoán được / Am không, bia cũng hỏng mất / Sông Tuyết Kim vắng vẻ đìu hiu.
Nguồn HTTP://vikipmedia.org

0 nhận xét:

Đăng nhận xét