Trần Thánh Tông (chữ Hán: 陳聖宗; 12 tháng 10, 1240[cần dẫn nguồn] - 3 tháng 7, 1290) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần, ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 cho đến khi qua đời.
Ông là một vị Hoàng đế tài năng, có công rất lớn trong công cuộc xây dựng Đại Việt trở nên hưng thịnh. Dưới triều đại của ông, nước Đại Việt thái bình và quân Nguyên Mông tạm thời không sang xâm lược nữa, tạo điệu kiện phát triển lực lượng hùng mạnh[1]. Không những đẩy mạnh chính sách phát triển kinh tế và giáo dục, ông đã thực hiện chính sách đối ngoại khôn khéo, nhưng cương quyết, đề cao quyền lợi của Đại Việt chứ quyết không để cho người Nguyên sang thôn tính.[2] Trong thời gian làm Thái thượng hoàng, ông đã cùng với con trai là Trần Nhân Tông lãnh đạo quân sĩ giành chiến thắng trong hai cuộc chiến cuối cùng chống lại quân đội nhà Nguyên.
Ông nổi tiếng là vị Hoàng đế có lòng thương dân và đặc biệt thân thiết với anh em trong Hoàng tộc, điều mà trước nay và sau này hầu như không có[1]. Ngoài ra, ông rất giỏi về thơ văn, cũng rất sùng Phật giáo, thường hay sáng tác thơ ca hoặc những bài đệ về thiền, một số tác phẩm như Di hậu lục ("Chép để lại cho đời sau"), Thiền tông liễu ngộ ("Bài ca giác ngộ Thiền tông"), Trần Thánh Tông thi tập ("Tập thơ Trần Thánh Tông"),...nhưng hầu hết đều đã thất lạc, chỉ còn lưu lại 6 bài thơ chép rải rác trong Việt âm thi tập và Đại Việt sử ký toàn thư.
Thân thế
Thánh Tông hoàng đế tên thật là Trần Hoảng (陳晃)[3], sinh ngày 25 tháng 9 âm lịch, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (tức 12 tháng 10 năm 1240), tại Thăng Long. Ông là con trai thứ, nhưng mà là con trưởng dòng đích của Thái Tông Nguyên Hiếu hoàng đế Trần Cảnh, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu Lý Oanh, công chúa nhà Lý, con gái của tiền triều Lý Huệ Tông. Ngay sau khi được sinh ra, ông liền được lập làm Hoàng thái tử.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước khi Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu mang thai ông, Thái Tông hoàng đế nằm mơ thấy Thượng đế trao tặng bà một thanh gươm báu[4].
Trong Chiến tranh Việt-Mông năm 1257, vào ngày 24 tháng 12, Thái tử Hoảng cùng với cha là Thái Tông hoàng đế ngự lâu thuyền mà kéo quân đến Đông Bộ Đầu, đập tan tác quân Nguyên Mông trong trận đánh ở đây, buộc họ phải rút chạy và chấm dứt cuộc xâm lược Đại Việt[4].
Trị vì
Ngày 24 tháng 2, niên hiệu Nguyên Phong thứ 8 (tức 30 tháng 3 năm 1258), Trần Thái Tông hoàng đế nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, về Bắc cung làm Thái thượng hoàng, mong muốn ông sẽ nắm thêm về đường lối trị quốc và mai này các anh em của ông sẽ cùng chung sống hòa đồng với nhau.[5].
Trần Thánh Tông lên ngôi, xưng làm Nhân Hoàng (仁皇). Ông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị[6]. Ông còn nổi tiếng là một vị hoàng đế nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài.[7] Ông thường nói rằng:
- Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung.[5]
Do vậy, trong nội cung khi ăn uống nô đùa không có phân tôn ti trật tự, các hoàng thân trong nội điện thường ăn chung một cỗ và cùng ngủ trên một giường với nhau, rất là đầm ấm, chỉ lúc nào có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo lẽ phép[5].
Đối nội
Ông cũng quan tâm tới giáo dục, Trần Ích Tắc, em trai Thánh Tông nổi tiếng là một người hay chữ trong nước nên được cử ra mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đĩnh Chi, người đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông sau này cũng học ở trường ấy[5].
Nhân sự cũng được thay đổi trong thời Thánh Tông. Bấy giờ Đặng Kế (鄧薊) làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá (杜國佐) làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học. Theo chế độ cũ, không phải là nội nhân (dòng họ vua) thì không được làm hành khiển, chưa bao giờ dùng nho sĩ văn học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ văn học mới giữ được quyền bính, cũng là dấu hiệu của Nho giáo đang bắt đầu có ảnh hưởng mạnh trong bộ máy nhà nước.
Vào năm 1262, Trần Thánh Tông xuống lệnh cho quan quân chế tạo vũ khí và đúc thuyền. Tại chín bãi phù sa ở sông Bạch Hạc, Lục quân và Thủy quân nhà Trần đã tổ chức tập trận. Vào tháng Chín (âm lịch) năm ấy, ông truyền lệnh cho rà soát ngục tù, và thẳng tay xử lý những kẻ đã đầu hàng quân xâm lược Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất thời Nguyên Phong[4].
Ông còn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Thái Tông, đến năm Nhâm Thân (1271) đời Thánh Tông mới xong[5].
Trần Thánh Tông cho phép vương hầu, phò mã họp các dân nghèo để khẩn hoang[6]. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đây.
Nhà vua xuống chiếu kén chọn văn học sĩ xung vào quan ở Quán và Các, Đặng Kế được kén làm Hàn Lâm Học sĩ, liền được thăng chức Trung Thư. Theo quy chế cũ: không phải người trong họ vua thì không được làm chức Hành khiển. Những người văn học được giữ quyền binh bắt đầu từ đây.
Đổi ngoại[sửa | sửa mã nguồn]
Quan hệ với Nam Tống
Năm 1258, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương[5]. Sau đó dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ.
Để giữ tình bang giao với Đại Việt, khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả. Việc duy trì quan hệ với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc[8].
Sau này Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, từ đó mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý.
Quan hệ với Nguyên Mông
Năm 1260, vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt sai Mạnh Giáp, Lý Văn Tuấn mang chiếu chỉ sang Đại Việt yêu cầu hệ thống chính quyền Đại Việt phải theo lối hoạt động của Thiên triều, không được dấy binh xâm lấn bờ cõi[9].
Vào năm 1261, ông được vua Mông Cổ phong làm An Nam Quốc Vương[10][11]. Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…
Vua nhà Nguyên lại đặt chức quan Darughachi[12] tại Đại Việt để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt; ý muốn can thiệp chính trị, tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm.
Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để phòng chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân quân ngũ ra làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.
Từ năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, trong lúc bình định nốt miền nam Trung Quốc muốn dụ vua Đại Việt sang hàng phục, để khỏi cần động binh. Cứ vài năm, Mông Cổ lại cho sứ sang sách nhiễu Đại Việt và dụ vua An Nam sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác.
Năm 1272, vua Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng vua Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa.[2] Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa.
Năm 1275 vua Nguyên ra chiếu dụ đòi vua Đại Việt nộp sổ sách dân số, thu thuế khóa, trợ binh lực cho Thiên triều thông qua sự thống trị của quan Darughachi và đòi nhà vua phải đích thân tới chầu[9]. Vua Thánh Tông sai sứ sang nói với vua Nguyên rằng:
- Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ.
Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh Tông cũng không chịu. Từ đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị.
Theo sách "Các triều đại Việt Nam" của Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, "Nhìn chung, vua Trần Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, chằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo sự xâm lược của nhà Nguyên."[2] Tuy nhiên, sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này.
Quan hệ với Trần Quốc Khang
Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, trên danh nghĩa là con trưởng của Trần Thái Tông, nhưng thực ra là con trai của An Sinh đại vương Trần Liễu cùng Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu. So với những người con còn lại của Thái Tông, tuy là con trưởng nhưng Quốc Khang học vấn tầm thường, xuất thân lại đặc biệt nên chịu mọi sự suy xét trong hoàng tộc.
Sử cũ kể lại, có lần Thánh Tông cùng với người anh cả là Trần Quốc Khang chơi đùa trước mặt Thái thượng hoàng. Thượng hoàng mặc áo bông trắng, Quốc Khang múa kiểu người Hồ, Thượng hoàng bèn cởi áo ban cho. Vua Thánh Tông thấy vậy cũng múa kiểu người Hồ để đòi thưởng áo bông. Quốc Khang bèn nói:[1]
- Quý nhất là ngôi vua, tôi đã không tranh với chú hai rồi. Nay đức chí tôn cho tôi thứ nhỏ mọn này mà chú hai cũng muốn cướp sao?
Thượng hoàng Thái Tông cười nói với Quốc Khang:[1]
- Vậy ra con coi ngôi vua cũng chỉ như cái áo choàng này thôi à?
Thái Tông khen Quốc Khang, rồi ban áo cho Khang. Trong Hoàng gia, cha con, anh em hòa thuận không xảy ra xích mích.[1] Vào tháng 9 năm 1269, ông phong Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ Đô thượng tướng quân[10]. Một lần khác, vào mùa xuân năm 1270, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 13, Quốc Khang xây vương phủ hoành tráng tại Diễn Châu, Thánh Tông bèn cho người đến xem. Hoảng sợ, Quốc Khang đành phải dựng tượng Phật tại nơi này - sau trở thành chùa Thông.[13]
Thái thượng hoàng
Năm 1277, thượng hoàng Trần Thái Tông mất. Mùa đông ngày 22 tháng Mười âm lịch năm sau (tức 8 tháng 11 năm 1278), Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con trai là Thái tử Trần Khâm - tức là vua Trần Nhân Tông - lên làm Thái thượng hoàng, với tôn hiệu là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế (光尧慈孝太上皇帝). Ông về ở Bắc cung rồi đi tu, nghiên cứu Phật học, viết sách.
Trên danh nghĩa là Thái thượng hoàng, nhưng Trần Thánh Tông vẫn tham gia việc triều chính trong bối cảnh chuẩn bị chống xâm lược của Nguyên Mông.
Quan hệ hai bên căng thẳng và đến cuối năm 1284 thì chiến tranh bùng nổ. Thượng hoàng Thánh Tông cùng vua con Nhân Tông đặt hết niềm tin vào người anh họ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, phong làm Tiết chế chỉ huy quân đội trong nước để chống Nguyên Mông. Trong hai cuộc chiến chống Nguyên Mông lần 2 và lần 3 thắng lợi có vai trò đóng góp của thượng hoàng Thánh Tông.
Năm 1289, sau khi chiến tranh kết thúc, ông lui về phủ Thiên Trường làm thơ. Các bài thơ thường được truyền lại là: Hành cung Thiên Trường, Cung viên nhật hoài cực.
Ngày 25 tháng Năm năm Trùng Hưng thứ 6 (tức 3 tháng 7 năm 1290), Thượng hoàng Trần Thánh Tông qua đời tại cung Nhân Thọ[10]. Ông làm vua 21 năm, làm Thượng hoàng 12 năm, hưởng thọ 51 tuổi, được táng ở Dụ Lăng - phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay).
Ngày nay ở trung tâm thành phố Hà Nội có phố mang tên Trần Thánh Tông.
Tác phẩm
Tác phẩm của Trần Thánh Tông có:
- Di hậu lục (Chép để lại cho đời sau).
- Cơ cầu lục (Chép việc nối dõi nghiệp nhà).
- Thiền tông liễu ngộ (Bài ca giác ngộ Thiền tông).
- Phóng ngưu (Thả trâu).
- Chỉ giá minh (Bài minh về sự cung kính).
- Trần Thánh Tông thi tập (Tập thơ Trần Thánh Tông).
Và một số thư từ ngoại giao, nhưng tất cả đều đã thất lạc, chỉ còn lại 6 bài thơ được chép trong Việt âm thi tập (5 bài) và Đại Việt sử ký toàn thư (1 bài) [14].
Thơ ông giàu chất trữ tình, kết hợp nhuần nhị giữa tinh thần tự hào về đất nước của người chiến thắng, với tình yêu cuộc sống yên vui, thanh bình, và phong độ ung dung, phóng khoáng của một người biết tự tin, lạc quan. Trong thơ, ông đã xen nhịp ba của thơ dân tộc với nhịp bốn quen thuộc của thơ Đường, tạo nên một nét mới về nhịp điệu thơ và về thơ miêu tả thiên nhiên.
Trong sách Thơ văn Lý Trần, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1977, có một bài của ông tên Chân tâm chi dụng (真心之用):
|
|
|
Gia quyến
- Cha: Thái Tông Nguyên Hiếu hoàng đế Trần Cảnh.
- Mẹ: Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị.
- Hậu phi:
- Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thiều (元聖天感皇后陳韶; ? - 1287), con gái thứ năm của An Sinh đại vương Trần Liễu.
- Cung phi là Vũ Thị Ngọc Lan [15]
- Hậu duệ:
- Trần Khâm [陳昑], tức Nhân Tông Duệ Hiếu hoàng đế (仁宗睿孝皇帝), mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu.
- Thiên Thuỵ công chúa [天瑞公主] là con đầu lòng, còn gọi là Quỳnh Trân[16], tên húy là Trần Quỳnh Nga[17], chị gái Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11âm lịch, 1308). Lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Mẹ là Cung phi là Vũ Thị Ngọc Lan[15].
Nhận định
Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần Thánh Tông "trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững", tuy nhiên trên quan điểm Nho giáo lại phê phán ông sùng đạo Phật "thì không phải phép trị nước hay của đế vương"[1].
Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông[1]:
“ |
Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an. Suốt đời Trần không có việc giặc Hồ[18] nữa, công to lắm.
| ” |
— Ngô Sĩ Liên
|
Chú thích
- ^ a ă â b c d đ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, các trang 107-108.
- ^ a ă â Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, các trang 100-102.
- ^ Việt Sử Toàn Thư, Phạm Văn Sơn, tr. 175; chép là Khoán
- ^ a ă â Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 5
- ^ a ă â b c d Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr. 52
- ^ a ă Phạm Văn Sơn, sách đã dẫn, tr. 176
- ^ Việt Sử Toàn Thư, sách đã dẫn, tr. 176
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 105
- ^ a ă An Nam chí lược, quyển Đệ nhị- Đại Nguyên chiếu chế
- ^ a ă â Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 5 (phần 2)
- ^ Theo An Nam chí lược, vua Hốt Tất Liệt nhà Nguyên năm Chí Nguyên thứ 3 (1267) mới phong vua Đại Việt là An Nam Quốc Vương
- ^ Đạt lỗ hoa xích
- ^ Đại Việt Sử ký Toàn Thư
- ^ Theo Phạm Tú Châu, mục từ "Trần Hoảng" trong Từ điển văn học (bộ mới. Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr. 1785) và Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003, tr. 847).
- ^ a ă
“Chuyện tình bi thảm ít người biết của một vị công chúa thời Trần”.
^ “Công chúa An Tư”.
^ “Thái trưởng công chúa Thiên Thụy”. - ^ Chỉ nhà Nguyên người Mông Cổ, theo cách gọi của Trung Quốc
0 nhận xét:
Đăng nhận xét