Thứ Sáu, 8 tháng 9, 2017

Top 4 người phụ nữ đầy quyền lực trong lịch sử Việt Nam

Điểm lại gương mặt những người phụ nữ quyền lực, tài sắc vẹn toàn trong lịch sử Việt Nam. Đó là những người phụ nữ có cống hiến to lớn cho đất nước, không hề kém cạnh với đấng mày râu. Đủ để chứng minh: Việt Nam ta con trai cũng như con gái, ai cũng xây dựng nước nhà giàu đẹp...

1. Nguyên phi Ỷ Lan - Mẫu nghi thiên hạ, tài sắc vẹn toàn

Ỷ Lan là vợ vua Lý Thánh Tông trong lịch sử Việt Nam. Vua ngự giá đến trang Thổ Lỗi, thấy một cô thôn nữ xinh đẹp vẫn điềm nhiên hái dâu bên cạnh gốc lan. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, cho người gạn hỏi. Người con gái đối đáp thông minh, cử chỉ đoan trang dịu dàng. Đó chính là Yến Loan.

Vua truyền lệnh tuyển cô gái ấy vào cung, rước về Lan Cung thuộc đất làng Kim Cổ, huyện Thọ Xương của kinh thành Thăng Long. Lý Thánh Tông phong Yến Loan là Ỷ Lan phu nhân, cũng có ý kỷ niệm hình ảnh cô gái đứng tựa bên gốc lan. Bà có rất nhiều đóng góp tích cực vào cơ nghiệp của nhà Lý.

Ỷ Lan đã hai lần làm nhiếp chính. Năm Kỷ Dậu 1069, Lý Thánh Tông thân chinh cùng Lý Thường Kiệt mang quân đi đánh Chiêm Thành, trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống.

Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn thờ Ỷ Lan là Quan Âm Nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan. Năm Nhâm Tý 1072, Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, hoàng thái tử Lý Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi (tức hoàng đế Lý Nhân Tông), bà được tôn làm Hoàng thái phi, rồi Hoàng thái hậu.

Triều đình rối ren, Ỷ Lan đã coi triều chính, điều khiển cả quốc gia, cùng tể tướng Lý Thường Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần quân Tống sang xâm lược (1075 và 1077), vua Lý Nhân Tông chưa quá 10 tuổi, Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, trao lại chức Thái sư, cùng Lý Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến.

Là người rất am hiểu và hâm mộ đạo Phật, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan có công xây dựng hàng trăm ngôi chùa. Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lý, mà đến nay mới biết được gốc tích sự truyền bá đạo Phật vào Việt Nam.

Không chỉ giỏi đánh giặc, phụ nữ Việt Nam còn giỏi trị quốc. Đó là hình ảnh của Nguyên phi, Hoàng thái hậu Ỷ Lan (1044-1117) – một trong những danh nhân huyền thoại của dân tộc Việt Nam bởi có tài trị nước xuất chúng.

2. Bắc cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân

Trong lịch sử Việt Nam, có một nhân vật nữ nổi tiếng, được sử sách nhắc nhiều nhất là công chúa Lê Ngọc Hân (1770 – 1799) – con gái thứ 9 của vua Lê Hiển Tông và đồng thời là Bắc cung hoàng hậu của Hoàng đế Quang Trung.

Vì giỏi văn thơ, Ngọc Hân được Nguyễn Huệ yêu say đắm. Nguyễn Huệ cũng được Ngọc Hân xem như một vĩ nhân hiếm có. Không chỉ yêu vì nết, Nguyễn Huệ còn trọng Ngọc Hân vì tài, nên giao coi giữ các văn thư trọng yếu, phong cho chức nữ học sĩ, dạy dỗ các con cái và các cung nữ.


Không chỉ vậy, Ngọc Hân còn trở thành người cộng sự đắc lực, tin cẩn về lĩnh vực văn hóa, giáo dục cho chồng; đồng thời khuyên giải cho chồng trong nhiều việc hệ trọng khác như khuyên chồng chấm dứt cuộc xung đột với Nguyễn Nhạc…

Theo Chu Quang Trứ trong “Danh nhân Lê Ngọc Hân”, Lê Ngọc Hân đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân ở Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4 tháng 12 năm 1799) thì mất, lúc đó mới 29 tuổi.

3. Công chúa Huyền Trân
Công chúa Huyền Trân là con gái yêu của Thượng hoàng Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông. Huyền Trân chào đời trong khung cảnh đất nước mới trải qua cơn binh biến tàn khốc do nạn ngoại xâm. Giặc Nguyên thất bại thảm hại khi 3 lần rắp tâm thôn tính Đại Việt không thành, nhưng vẫn tìm cách báo thù. Nhiều lần nhà Nguyên cho sứ sang hoạnh họe, bắt bẻ, dọa nạt.

Do vậy, triều đình ngày đêm lo lắng đối phó với kẻ thù. Phía Tây và phía Nam nhiều lần bị giặc quấy phá khiến nhân dân điêu đứng, lầm than. Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã tới nhiều nơi để hoằng pháp giáo lý. Ngài từng đến cả Chiêm Thành tỏ tình hòa hảo, được vua Chiêm Chế Mân và các vị tu hành ở đây vô cùng cảm phục.


Qua bảy, tám tháng sống ở đất Chiêm, Thượng hoàng ngày càng yêu mến mảnh đất này, vốn là nơi có nền văn hóa cổ sơ, người dân lại có tài xây dựng đền đài chùa tháp. Đồng thời, người muốn xóa đi mối hận thù, mặc cảm Chiêm – Việt từ bao đời nên hứa gả con gái yêu Huyền Trân cho Chế Mân. Thượng hoàng hẹn sau 4 năm sau khi công chúa đủ 18 tuổi thì sẽ cho Chế Mân mang sính lễ sang cầu hôn.

Trở về nước, vua Trần Nhân Tông kể về chuyến du hành phương Nam và ông vua trẻ Chế Mân văn võ song toàn cho con gái Huyền Trân. Người bảo Huyền Trân giơ bàn tay lên và nói: “Con có thấy trên bàn tay con có hình bóng của phụ hoàng và Thái Hậu không? Trên bàn tay con không những có ta, có mẹ con mà còn có cả giống nòi đất nước”. Câu nói đầy ý nghĩa ấy khiến Công chúa Huyền Trân hiểu được trọng trách mà Phụ hoàng giao phó trên đôi vai bé nhỏ của mình.

Tháng sáu năm Bính Ngọ (1306) lễ rước dâu được cử hành trọng thể. Huyền Trân vái lạy Phụ hoàng, Thái hậu cùng vua Anh Tông lên kiệu hoa về nhà chồng ở phương Nam xa lạ. Chế Mân cho mở hội 3 ngày cả nước đón mừng cô dâu. Đây cũng là ngày lễ đăng quang Hoàng hậu, còn cho khắc bia đá ghi sự kiện lịch sử này.

Sống trên đất Chăm, Hoàng hậu Huyền Trân được vua yêu quý cho đi du hành, vãn cảnh, đồng thời tìm hiểu cuộc sống, hoàn cảnh của dân. Những thực tại đói khát, vất vả, bệnh tật nơi thôn dã khiến Hoàng hậu không vui. Bà tâu bày với vua quan tâm đến dân, chỉ ra những tồn tại yếu kém của bộ máy quan lại nhũng nhiễu dân cần được khắc phục.

Chế Mân cảm phục tấm lòng từ bi, bác ái của Huyền Trân nên đã có những chấn chỉnh để gần dân hơn. Thế nhưng chỉ sau gần một năm nghĩa tình đằm thắm, hương lửa mặn nồng, vua Chiêm bị ám sát. Huyền Trân trở thành góa bụa. Theo lệ người Chăm khi vua mất, Hoàng hậu, phi tần phải lên giàn hỏa chết theo. Việc này sẽ đến với Huyền Trân ngay sau khi bà sinh con.

Sợ em gái bị tổn thương, Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung tới Chiêm Thành cứu Huyền Trân về. Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân. Bày kế thành công, Khắc Chung đã cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền về Đại Việt bằng đường biển. Còn Huyền Trân thì như xác không hồn, khi tỉnh mới rõ cơ sự. Tháng 8 năm Mậu Thân (1308), công chúa Huyền Trân về đến Thăng Long. Theo di mệnh của Thượng hoàng, công chúa xuất gia ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm (1309) và được ban pháp danh “Hương Tràng”.

Cuối năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ quy y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự. Thương chúng sinh, giúp người cơ nhỡ, để lại tiếng thơm trên quê hương Nam Định, khi bà mất, dân trong thôn còn tạc tượng tôn thờ.

4. Công chúa An Tư

An Tư công chúa là một trong 2 vị công chúa nổi tiếng nhất lịch sử nhà Trần vì các cuộc hôn nhân mang tính trọng đại, cùng với Huyền Trân công chúa. Công chúa An Tư là con gái vua Trần Thái Tông, em gái út của vua Trần Thánh Tông. Công chúa An Tư liễu yếu đào tơ, bất đắc dĩ trở thành người đẹp “mỹ nhân kế” dưới trướng Trấn Nam Vương Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt.

Tuy công chúa An Tư đã có công lớn góp vào chiến thắng chung của cả dân tộc, nhưng sử sách ghi chép rất sơ lược về cuộc đời bà. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chỉ viết vẻn vẹn: “Sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy“.

Tháng Chạp năm Ất Dậu (1285), hơn nửa triệu quân nguyên do Thoát Hoan cầm đầu, tràn sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Khi giặc áp sát kinh thành Thăng Long, tình hình trở nên vô cùng căng thẳng, nhiều tôn thất nhà Trần như: Trần Kiện, Trần Lộng và hoàng thân Trần ích Tắc đã đem toàn bộ gia quyến, liêu thuộc đi đầu hàng.


Trần Khắc Chung được sai đi sứ để giảng hòa, làm chậm tốc độ tiến quân của giặc nhưng không có kết quả. Nhằm tận dụng thời gian củng cố lực lượng, vua Trần Thánh Tông không còn cách nào khác, phải dùng đến kế mỹ nhân, tức sai dâng em gái út cho Trấn Nam Vương Thoát Hoan để tạm cầu hòa.

Tuân theo lệnh vua và vì an nguy của xã tắc, công chúa An Tư đã từ bỏ cuộc sống êm ấm, nhung lụa trong cung đình, vĩnh biệt bè bạn để hiến dâng tuổi trẻ, kể cả tính mạng để làm nội gián cho triều Trần. Tháng 3 năm 1285, An Tư vào dinh Thoát Hoan (ở bờ bắc sông Hồng). Ở trại giặc, công chúa đã sống như thế nào, làm được những gì, không ai biết. Song, một điều rõ rằng, bà đã phải âm thầm nuốt nhục, chiều chuộng con trai của Hốt Tất Liệt.

Đúng là “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân”. Vì quá si mê An Tư, Thoát Hoan rơi vào ma trận tình cảm, đã quên cả việc tấn công Thăng Long, tạo cơ hội quý giá cho quân nhà Trần có thể rút lui một cách an toàn. Đến tháng Tư cùng năm, quân Đại Việt phản công dữ dội ở hầu khắp các mặt trận khiến cho quân Nguyên đại bại. Riêng Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn qua biên giới.

Số phận công chúa An Tư vẫn còn là một bí ẩn. Trong cuốn “An Nam chí lược” của Lê Tắc có ghi: “Trước, Thái tử (chỉ Thoát Hoan) lấy người con gái nhà Trần sinh được hai con”. Người con gái họ Trần này có thể là công chúa An Tư, tuy nhiên chưa có chứng cứ rõ ràng khẳng định điều này. Sau chiến thắng, các vua Trần làm lễ tế lăng miếu khen thưởng công thần, truy phong tướng lĩnh, nhưng không ai nhắc đến An Tư. Thế nhưng, dù triều Trần và sử sách có quên nàng thì các thế hệ đời sau vẫn dành cho nàng sự kính trọng, thương cảm…

Tổng hợp

0 nhận xét:

Đăng nhận xét